Tăng tốc thực hiện mục tiêu

Bộ trưởng Bộ GTVT đã ký Quyết định về việc phê duyệt Đề án phát triển đội tàu vận tải biển của Việt Nam.

Quan điểm xuyên suốt của Đề án là phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của đất nước, đặc biệt là tiềm năng biển để phát triển vận tải biển một cách đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi thích hợp; đẩy mạnh phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển mới của thế giới; phát triển đội tàu chuyên dụng container phù hợp, mở rộng mạng lưới để tăng thị phần vận chuyển khu vực châu Á, đặt nền móng vững chắc cho việc khai thác tuyến vận tải xa trong thời gian tới.

Ba mục tiêu của Đề án gồm đánh giá bức tranh toàn cảnh thực trạng đội tàu vận tải biển hiện có của Việt Nam; đề xuất được loại tàu phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam và quốc tế cần được phát triển trong thời gian tới, cùng với các cơ chế chính sách cần thiết để xây dựng và phát triển đội tàu này, nhằm đảm bảo thị phần vận tải nội địa và nâng cao năng lực vận tải quốc tế, để từ đó góp phần giảm chi phí logistic và bảo đảm duy trì tính chủ động, ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam khi có những yếu tố biến động bất lợi của thị trường.

Đề án cũng đặt mục tiêu tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực vận tải biển; hoàn thiện các quy định thể chế pháp luật, tạo khung pháp lý minh bạch, thông thoáng, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.

Ngoài ra, tăng gấp đôi thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu qua cảng biển Việt Nam bằng đội tàu biển Việt Nam lên 10% vào năm 2026 và đạt 20% vào năm 2030.

Với giai đoạn 2022 - 2026, đề án đặt ra 5 nhóm giải pháp chính để có thể đạt được các mục tiêu trên, gồm: tập trung sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về mua bán, đăng ký tàu biển và quản lý giá dịch vụ hàng hải và quản lý hoạt động vận tải container của các hãng tàu nước ngoài tại Việt Nam; cho phép không áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) khi nhập khẩu tàu biển vận chuyển hàng hóa cho chủ tàu Việt Nam đến hết năm 2026; Miễn thuế nhập khẩu và giảm 50% phí trọng tải khi chủ tàu mua và khai thác tàu container từ 1.500 TEUs trở lên hoặc tàu chạy bằng năng lượng sạch như LNG và các tàu chở LNG…

Với giai đoạn 2026-2030, sẽ tập trung hỗ trợ một số hãng tàu container Việt Nam đủ mạnh để vươn ra hoạt động quốc tế ở những thị trường xa như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… và có thể đi đến châu Âu và Mỹ. Có cơ chế chính sách hỗ trợ các hãng tàu liên minh, liên kết trong hoạt động khai thác hàng hóa container để nâng cao quy mô của doanh nghiệp, năng lực tài chính… tăng năng lực cạnh tranh với các hãng tàu nước ngoài.

Tiếp tục miễn thuế nhập khẩu và miễn giảm 50% phí trọng tải khi chủ tàu mua và khai thác tàu container từ 1.500 TEUs trở lên hoặc tàu chạy bằng năng lượng sạch như LNG, H2… và các tàu chở LNG đến hết năm 2030.

Còn nhiều hạn chế

Những mục tiêu tại đề án được đưa ra trong bối cảnh đội tàu mang cờ quốc tịch Việt Nam, gồm đội tàu vận tải biển chuyên dụng và đội tàu/phương tiện khác có 1.502 tàu, với tổng dung tích khoảng 7,145 triệu GT và tổng trọng tải khoảng 11,7 triệu DWT tính đến tháng 12-2021. Con số này không bao gồm số liệu tàu đang đóng.

Riêng tàu vận tải biển chuyên dụng có 1.032 tàu với tổng dung tích khoảng 6,3 triệu GT và khoảng 10,6 triệu DWT, chủ yếu là cỡ tàu nhỏ (từ 5.000 GT trở xuống – PV) và cỡ tàu trung bình (từ trên 5.000 GT đến 10.000 GT – PV).

Trong giai đoạn 2015-2021, thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của đội tàu biển Việt Nam có xu hướng giảm qua từng năm, thị phần qua các năm 2015, 2016 và 2017, 2018, 2019, 2020 lần lượt là 11%, 8%, 7%, 5%. Con số này có xu hướng tăng trưởng trở lại khi đạt 7% vào năm 2021.

Về thị trường vận chuyển, đội tàu biển Việt Nam chủ yếu chạy tuyến ngắn như: Trung Quốc, Đông Nam Á, châu Á. Cơ cấu đội tàu biển chưa hợp lý, chủ yếu tàu trọng tải nhỏ chở hàng khô, hàng rời; thiếu tàu container và tàu trọng tải lớn chạy tuyến quốc tế.

Về nhân lực vận tải biển, hiện còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Thị trường quốc tế rộng lớn, giá cước cao nhưng sức cạnh tranh của đội tàu vận tải biển của Việt Nam yếu, khó dành được hợp đồng vận chuyển.

Thị trường vận tải nội địa không lớn nhưng số lượng tàu nhiều, dẫn tới tình trạng cạnh tranh cao, giảm giá cước, làm hiệu quả hoạt động của các chủ tàu không cao.

Bên cạnh đó, khả năng đáp ứng được yêu cầu về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, lao động hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường đối với phần lớn tàu vận tải quốc tế còn rất hạn chế dẫn đến tình trạng tàu biển Việt Nam bị lưu giữ ở cảng biển nước ngoài với số lượng khiếm khuyết cao.

Giá cước vận tải biển duy trì trong quý IV: Doanh nghiệp có gặp "thời" cuối năm?