Chỉ trong bốn tháng đầu năm, xuất khẩu than đá của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng đột biến, đặc biệt tại một quốc gia Đông Nam Á khi nhu cầu tăng vọt bất thường.
Theo số liệu sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 4, lượng than xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh, đạt mức tăng 263,1% về khối lượng và tăng 310,7% về giá trị so với tháng trước. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 4, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 241.000 tấn than, trị giá trên 46 triệu USD, tăng 111,1% về lượng và 46% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
![]() |
Xuất khẩu than của Việt Nam tăng vọt trong bốn tháng đầu năm. Ảnh minh hoạ |
Một điểm sáng đáng chú ý là sự tăng trưởng mạnh mẽ từ thị trường Philippines. Quốc đảo này đã nhập khẩu hơn 62.000 tấn than từ Việt Nam, với trị giá khoảng 10,7 triệu USD. So với cùng kỳ năm trước, sản lượng nhập tăng tới 51.645%. Tuy nhiên, kim ngạch lại giảm sâu đến 80%, khiến giá xuất khẩu bình quân chỉ còn 173 USD mỗi tấn, giảm 15%.
Philippines là quốc gia phụ thuộc lớn vào than đá trong khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh các dự án năng lượng tái tạo chưa phát triển mạnh, nhu cầu nhập khẩu than vẫn duy trì ở mức cao.
Nhật Bản tiếp tục là thị trường lớn nhất tiêu thụ than đá Việt Nam với hơn 63.500 tấn trong bốn tháng đầu năm, trị giá khoảng 12,6 triệu USD. Mức tăng trưởng tại thị trường này tương đối ổn định, tăng 19% về lượng và 2% về giá trị.
Trong khi đó, Indonesia bất ngờ trở thành điểm đến mới đáng chú ý. Việt Nam đã xuất khẩu gần 44.000 tấn than sang thị trường này, đạt giá trị hơn 7,7 triệu USD. Cùng kỳ năm ngoái không ghi nhận đơn hàng nào từ Indonesia. Giá bán bình quân tại đây đạt 177 USD mỗi tấn.
![]() |
Việt Nam hiện là một trong năm quốc gia tiêu thụ than nhiều nhất khu vực. Trữ lượng than đá cả nước ước đạt khoảng 50 tỷ tấn, trong đó Quảng Ninh là địa bàn quan trọng bậc nhất với trữ lượng khoảng 8,7 tỷ tấn. Các mỏ tại đây đã được khai thác từ năm 1839 và nhờ vị trí gần biển, thuận lợi cho vận chuyển, Quảng Ninh trở thành trung tâm khai thác than hàng đầu cả nước.
Bộ Công Thương cho biết, khả năng huy động than trong nước giai đoạn đến năm 2030 dự kiến đạt từ 43 đến 47 triệu tấn mỗi năm, sau đó sẽ giảm dần trong giai đoạn 2035 đến 2045.
Dự báo nhu cầu sử dụng than sẽ tiếp tục tăng cao đến năm 2035, dao động từ 94 đến 127 triệu tấn mỗi năm, chủ yếu phục vụ cho sản xuất điện, xi măng, luyện kim và hóa chất. Tuy nhiên, đến năm 2045, nhu cầu này có xu hướng giảm, còn khoảng 73 đến 76 triệu tấn.
Trong khi đó, năng lực sản xuất than thương phẩm trong nước được duy trì ở mức khoảng 45 đến 47 triệu tấn mỗi năm giai đoạn 2025 đến 2035 và sẽ giảm xuống còn 42 đến 44 triệu tấn vào năm 2045. Để bù đắp nhu cầu thiếu hụt, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu từ 50 đến 83 triệu tấn than trong giai đoạn 2025 đến 2035 và khoảng 32 đến 35 triệu tấn vào năm 2045.
Tổ chức Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo giá than toàn cầu có thể đạt khoảng 85 USD mỗi tấn vào năm 2025. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự gia tăng nhu cầu tại các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, trong khi các quốc gia phát triển dần siết chặt sản lượng để đáp ứng mục tiêu phát thải thấp.