80% khoản vay DNNVV nhận được chỉ có kỳ hạn dưới 12 tháng
Theo ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thành phố Hà Nội, hiện nay Hiệp hội đang có 2 chương trình lớn là "1 kèm 1": Một doanh nghiệp khỏe kèm một doanh nghiệp yếu; hoặc để doanh nghiệp khỏe vào nắm cổ phần của doanh nghiệp yếu để hỗ trợ doanh nghiệp yếu khởi nghiệp, tạo thành một hệ sinh thái để nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhỏ, qua đó giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn cũng thuận lợi hơn trong hoạt động.
Hiện, các DNNVV chiếm tới trên 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, và trong nhóm này, hơn 90% có quy mô siêu nhỏ hoặc nhỏ, với mức vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng. Do đó, nhu cầu về vốn tín dụng không chỉ đơn thuần là thiết yếu, mà còn là yếu tố sống còn của cả quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
![]() |
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV thành phố Hà Nội. Ảnh: Quang Thái. |
Theo các khảo sát, có đến hơn 80% DNNVV đang cần vốn để phục hồi sau đại dịch, mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, chỉ khoảng 40% doanh nghiệp hội viên tiếp cận được tín dụng từ ngân hàng trong năm qua. Điều này cho thấy một nghịch lý rất đáng lo ngại: Cầu rất lớn nhưng cung lại nhỏ, và quan trọng là cung không đến được đúng nơi cần vốn.
Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV cho hay, nhu cầu vốn tín dụng của DNNVV thường tập trung vào ba nhóm chính. Thứ nhất, vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh ngắn hạn: Nhập nguyên vật liệu, trả lương nhân công, chi phí vận hành… Đây là nhóm nhu cầu chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 60-65%).
Tiếp đó là vốn đầu tư tài sản cố định, đổi mới công nghệ như mua máy móc, dây chuyền sản xuất, đầu tư chuyển đổi số, sản xuất xanh… Tuy rất cần thiết, nguồn vốn này thường bị bỏ ngỏ do ngân hàng không tài trợ dài hạn nếu không có tài sản đảm bảo.
Đối với vốn phục vụ xuất khẩu, bảo lãnh thương mại, hoặc đặt cọc hợp đồng, nhiều doanh nghiệp có đơn hàng nhưng không có vốn đặt cọc, làm mất cơ hội phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với các thị trường quốc tế, đây là lỗ hổng cần sớm lấp đầy.
Đặc biệt, với các doanh nghiệp đang tham gia vào lĩnh vực chuyển đổi xanh như sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tiết kiệm năng lượng, tái chế, thì nhu cầu vốn rất lớn nhưng lại khó tiếp cận được nguồn tài chính xanh do chưa có cơ chế riêng cho phân khúc này tại Việt Nam.
Không những vậy, DNNVV rất cần vốn trung và dài hạn, nhưng thực tế cho thấy, 80% khoản vay họ nhận được chỉ có kỳ hạn dưới 12 tháng, không đủ thời gian để triển khai đầu tư hiệu quả. Nhu cầu thực tế là rất lớn đối với các khoản vay 3–5 năm với lãi suất ổn định, không quá biến động như hiện nay.
"Chúng tôi nhận thấy rằng, nếu được hỗ trợ vốn đúng lúc, đúng chỗ, doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tạo ra sức bật rất mạnh mẽ cho nền kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, logistics, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu", ông Mạc Quốc Anh nhấn mạnh.
Hoàn thiện mô hình các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
Ông Mạc Quốc Anh nhấn mạnh, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị là một bước đột phá chính sách rất quan trọng, trong đó, điểm nhấn đáng chú ý là yêu cầu “hoàn thiện mô hình các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV ở cả trung ương và địa phương”.
"Đây được xem là một giải pháp căn cơ nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng và tạo cơ hội tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng nhưng thiếu tài sản thế chấp", Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV cho hay.
![]() |
Cần xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro giữa ngân hàng – Quỹ bảo lãnh – Chính phủ. |
Tuy nhiên, ông cũng chỉ rõ thực trạng: Hiện nay, các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở địa phương hoạt động còn rất khiêm tốn, quy mô nhỏ, cơ chế phê duyệt rườm rà, thiếu phối hợp với các ngân hàng thương mại. Từ đó, ông đề xuất một số kiến nghị cụ thể:
Một là, thống nhất mô hình tổ chức Quỹ bảo lãnh tín dụng trên toàn quốc: Cần ban hành một nghị định riêng về mô hình hoạt động của các quỹ này theo hướng trao quyền tự chủ, linh hoạt trong phê duyệt và quản lý rủi ro, đồng thời chịu sự giám sát trực tiếp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.
Hai là, tăng nguồn vốn điều lệ cho các Quỹ hiện có: Nhiều Quỹ chỉ có vốn vài chục tỷ đồng, không đủ để bảo lãnh cho một nhóm doanh nghiệp nhỏ. Chính phủ cần hỗ trợ vốn đối ứng hoặc cho phép các địa phương dùng ngân sách tái cấp vốn cho Quỹ.
Ba là, khuyến khích doanh nghiệp lớn tham gia bảo lãnh chuỗi giá trị cung ứng: Mô hình “doanh nghiệp bảo lãnh doanh nghiệp” trong chuỗi cung ứng nên được thể chế hóa. Ví dụ, các doanh nghiệp đầu chuỗi có thể bảo lãnh cho nhà cung cấp nhỏ nhận vốn để sản xuất theo hợp đồng.
Bốn là, chấp nhận rủi ro hợp lý trong hoạt động bảo lãnh: Cần xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro giữa ngân hàng – Quỹ bảo lãnh – Chính phủ. Những rủi ro bất khả kháng (thiên tai, khủng hoảng thị trường) cần có mức hỗ trợ từ ngân sách để không làm tê liệt Quỹ.
Năm là, ứng dụng công nghệ vào đánh giá tín dụng và kiểm soát rủi ro: Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), big data trong việc chấm điểm tín nhiệm doanh nghiệp sẽ giúp Quỹ bảo lãnh hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời minh bạch và phòng, chống gian lận.
Sáu là, kết nối chặt chẽ Quỹ bảo lãnh với các chương trình hỗ trợ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, để từ đó hình thành hệ sinh thái tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận toàn diện hơn từ vốn, thông tin, đào tạo đến bảo lãnh.
“Nếu những đề xuất này được triển khai đồng bộ, chúng tôi tin rằng hệ thống Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ trở thành cánh tay nối dài của chính sách tài khóa, tiền tệ, giúp khơi thông hiệu quả dòng vốn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là những doanh nghiệp đang khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và hướng đến mô hình kinh tế xanh, bền vững trong thời gian tới”, Tổng Thư ký Hiệp hội DNNVV nhận định.