Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 514 tỷ USD, tăng mạnh so với cùng kỳ. Khu vực FDI tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt xuất khẩu, trong khi Việt Nam nhập siêu lớn từ Trung Quốc và ASEAN.
Việt Nam xuất siêu 10 tỷ USD sau 7 tháng, nhập siêu từ Trung Quốc lập đỉnh
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 7 tháng đạt hơn 514 tỷ USD, Việt Nam xuất siêu 10,18 tỷ USD. Ảnh minh hoạ

Theo số liệu từ Cục Thống kê thuộc Bộ Tài chính công bố sáng 6/8, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trong tháng 7 đạt 82,27 tỷ USD, tăng 8% so với tháng trước và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Lũy kế 7 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 514,7 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 262,44 tỷ USD (tăng 14,8%), còn nhập khẩu đạt 252,26 tỷ USD (tăng 17,9%). Nhờ đó, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 10,18 tỷ USD. Tuy nhiên, mức thặng dư này vẫn thấp hơn so với con số 14,63 tỷ USD của cùng kỳ năm 2024.

Kim ngạch xuất khẩu tháng 7 đạt 42,27 tỷ USD, tăng 6,9% so với tháng trước. Trong đó, khu vực doanh nghiệp trong nước đạt 8,95 tỷ USD (tăng 3,5%), còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt 33,32 tỷ USD (tăng 7,9%).

So với cùng kỳ, xuất khẩu tháng 7 tăng 16%. Đáng chú ý, khu vực FDI tăng tới 25,9%, trong khi khu vực trong nước giảm 10,3%. Tính chung 7 tháng, xuất khẩu từ khu vực FDI đạt 194,96 tỷ USD (tăng 17,9%), chiếm 74,3% tổng kim ngạch. Khu vực trong nước đạt 67,48 tỷ USD (tăng 6,7%).

Hiện có 28 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 91,7% tổng giá trị xuất khẩu. Trong đó, 9 mặt hàng đạt kim ngạch trên 5 tỷ USD, đóng góp 72,3%.

Về cơ cấu, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt 232,37 tỷ USD (88,6%). Các nhóm hàng khác gồm nông lâm sản đạt 22,4 tỷ USD (8,5%), thủy sản đạt 6,08 tỷ USD (2,3%) và nhiên liệu khoáng sản đạt 1,59 tỷ USD (0,6%).

Tháng 7, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 40 tỷ USD, tăng 9,1% so với tháng trước. Khu vực trong nước đạt 11,29 tỷ USD (tăng 4,6%), còn khu vực FDI đạt 28,71 tỷ USD (tăng 11%).

Tổng 7 tháng, kim ngạch nhập khẩu đạt 252,26 tỷ USD. Trong đó, khu vực FDI nhập khẩu 168,19 tỷ USD (tăng 23,6%), chiếm tỷ trọng lớn. Khu vực trong nước nhập khẩu 84,07 tỷ USD (tăng 8%).

Có 36 mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD, chiếm 90,5% tổng kim ngạch. Trong đó, 9 mặt hàng trên 5 tỷ USD, chiếm 64,1%.

Về cơ cấu, hàng tư liệu sản xuất chiếm ưu thế với 236,57 tỷ USD (93,8% tổng kim ngạch nhập khẩu). Trong đó, nhóm máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng chiếm 51,7% và nhóm nguyên nhiên vật liệu chiếm 42,1%. Hàng tiêu dùng đạt 15,69 tỷ USD, chiếm 6,2%.

Về thị trường, Trung Quốc tiếp tục là đối tác nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 101,5 tỷ USD. Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 66,5 tỷ USD (tăng 41,1%), từ ASEAN 8,5 tỷ USD (tăng 63%). Trong khi đó, nhập siêu từ Hàn Quốc giảm nhẹ còn 17,4 tỷ USD.

Ở chiều ngược lại, Việt Nam xuất siêu sang EU 22,3 tỷ USD (tăng 9,9%) và sang Nhật Bản 1,3 tỷ USD (tăng 21%).

Theo Bộ Công Thương, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa lợi thế từ 17 hiệp định thương mại tự do đã ký với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, cần chú trọng mở rộng thị trường, tránh lệ thuộc vào một số thị trường truyền thống.

Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương cho rằng Chính phủ cần tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu như thúc đẩy xúc tiến thương mại, tháo gỡ rào cản kỹ thuật, kết nối cung cầu và hỗ trợ tiêu thụ nông sản, lâm sản, thủy sản trong và ngoài nước.

Ngoài ra, cần tăng cường cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợ pháp lý trong các vụ kiện chống bán phá giá, tạo điều kiện tiếp cận vốn và ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị phần xuất khẩu.

Riêng với nhóm sản phẩm nông lâm thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tập trung hoàn thiện các cơ chế chính sách, xây dựng chuỗi cung ứng bền vững nhằm nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh và uy tín của nông sản Việt trên thị trường toàn cầu.