Tín dụng xanh đã tăng trưởng với tốc độ cao hơn

Tín dụng xanh là lĩnh vực mà Việt Nam đang theo đuổi lâu nay. Về quá trìnhf này, ông Nguyễn Tùng Anh, Giám đốc Nghiên cứu Tín dụng kiêm Trưởng bộ phận Tài chính Bền vững, FiinRatings nhận định, những năm qua, tài chính xanh đã dần “bén rễ”.

Cụ thể, những con số liên quan đến tín dụng xanh tại Việt Nam đã cho thấy xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ và liên tục từ năm 2015 đến tháng 6/2024, đặc biệt từ năm 2020 trở đi với mức tăng trưởng tăng vọt, đạt 679.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024.

Vốn xanh vẫn còn khá khiêm tốn, mới chiếm 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế

Tín dụng xanh đã tăng trưởng với tốc độ cao hơn.

Nếu so với tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2018-2024, tín dụng xanh tăng trưởng với tốc độ cao hơn mức tăng trưởng tín dụng kinh tế nói chung, với tốc độ tăng trưởng có khi đạt 30% (năm 2018 và 2021), trong khi tăng trưởng tín dụng kinh tế nói chung dao động quanh mức 12-15%.

Trong khi đó, ở kênh trái phiếu xanh, thị trường cũng ghi nhận nhiều dấu hiệu tích cực. Thống kê của FiinRatings cho thấy, giá trị phát hành trái phiếu bền vững (GSS) cho thấy sự tăng trưởng đáng kể, dự kiến đạt 6.875 tỷ đồng vào năm 2024 từ 2.500 tỷ đồng vào năm 2023.

Cơ cấu của trái phiếu GSS đang lưu hành tính đến ngày 31/12/2024, cho thấy một thị trường mới nổi với trái phiếu do FiinRatings đánh giá ở mức 0,2% và trái phiếu được tổ chức nước ngoài xác nhận ở mức 1,2% tổng thị trường trái phiếu doanh nghiệp (trị giá hơn 1,2 triệu tỷ).

Bên cạnh đó, ông Nguyễn Tùng Anh cũng cho biết, ngoài ngân hàng và các định chế, đã có nhiều tổ chức phi tài chính tham gia phát hành trái phiếu xanh.

Thị trường lần đầu tiên ghi nhận sự tham gia của các lô trái phiếu xanh do doanh nghiệp phi tài chính phát hành như Công ty Đầu tư và Phát triển Đa quốc gia I.D.I hay Công ty TNHH Nước sạch Hòa Bình - Xuân Mai.

Ngoài ra, các lô trái phiếu này đều phát hành nguyên tắc trái phiếu xanh của Hiệp hội Thị trường vốn Quốc tế (ICMA), được xác nhận độc lập trước và sau phát hành bởi các tổ chức uy tín quốc tế và trong nước, đảm bảo minh bạch và góp phần ngăn chặn tình trạng “rửa xanh”.

“Hệ sinh thái trái phiếu xanh đang phát triển nhanh, với các doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến tài chính xanh. Việc mở rộng này được hỗ trợ bởi hệ thống các công ty chứng khoán và ngân hàng ngày càng tích lũy nhiều kinh nghiệm về tài chính xanh, cung cấp chuyên môn kỹ thuật và hướng dẫn thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành mới”, ông nói.

Ngoài ra, các mô hình mới tạo ra cũng bổ sung thêm các lựa chọn đầu tư vào tài chính bền vững. Trong năm qua, Quỹ EVESG của Eastspring đã thực hiện đánh giá quỹ ESG độc lập đầu tiên trên thị trường vốn Việt Nam, tạo ra nền móng về tiêu chuẩn minh bạch mới để xác nhận cho hoạt động đầu tư bền vững.

Triển khai tài chính xanh ở Việt Nam còn chậm

Tuy nhiên, theo ông Thomas Jacobs, Giám đốc Quốc gia, Việt Nam, Cambodia, Lào của IFC, việc triển khai tài chính xanh ở Việt Nam còn chậm.

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ số, công nghệ thân thiện với môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất để thực hiện kinh tế tuần hoàn
Quy mô trái phiếu xanh, xã hội và bền vững được phát hành giai đoạn 2016 - 2024 chỉ đạt 1,4 tỷ USD.

Về vấn đề này, theo ông Thomas Jacobs mặc dù ngân hàng nắm giữ tới 80% các khoản tiền tiết kiệm trong nước nhưng chỉ có 5,4% trong số đó dành cho các dự án liên quan đến khí hậu. Cùng với đó, quy mô trái phiếu xanh, xã hội và bền vững được phát hành giai đoạn 2016 - 2024 chỉ đạt 1,4 tỷ USD.

“Thực tế này cho thấy Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển, bao gồm hạn chế về nhận thức, thiếu tiêu chí phân loại rõ ràng, thị trường vốn còn nhiều rào cản, năng lực hạn chế của các ngân hàng trong việc tài trợ các dự án”, đại diện IFC nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Tùng Anh cũng chỉ ra, Việt Nam vẫn chưa có một hệ thống phân loại chính thức cho tài chính xanh, gây khó khăn trong việc xác định và đánh giá các dự án đáp ứng tiêu chuẩn ESG.

Bên cạnh đó, chuyên môn nội bộ về ESG và tài chính xanh còn hạn chế, khiến nhiều tổ chức gặp khó khăn trong việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Các yêu cầu mới trong lĩnh vực này đòi hỏi kiến thức liên ngành, bao gồm tài chính, kỹ thuật, khoa học môi trường và tuân thủ quy định, tạo áp lực lớn lên doanh nghiệp và tổ chức tài chính.

Đặc biệt, nếu không có cơ chế minh bạch và rõ ràng, doanh nghiệp đối mặt với rủi ro bị cáo buộc "tẩy xanh" (greenwashing), làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư và thị trường, đại diện FiinRatings nói.

Giám đốc Quốc gia, Việt Nam, Cambodia, Lào của IFC nhận định, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tích cực song phần lớn phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu có giá trị thấp, vẫn thâm dụng lao động. “Nếu cứ tiếp tục như vậy, Việt Nam khó có thể trở thành quốc gia có thu nhập cao hơn”, ông nhấn mạnh.

Đại diện IFC gợi mở, để “chuyển mình” thành quốc gia có thu nhập cao, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Trung Quốc – những quốc gia thành công khi lựa chọn chuyển sang mô hình carbon thấp. Tuy nhiên, ở mô hình này, tài chính xanh là một trong những động lực thúc đẩy quan trọng nhất.

Do đó, nếu muốn đạt được các mục tiêu giảm phát thải và tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần phải có những cơ chế tài chính mạnh mẽ hơn để thúc đẩy cả tài chính biến đổi khí hậu lẫn tài chính xanh, ông nhấn mạnh.