Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng là điều không dề dễ dàng. Xung quanh vấn đề này, chúng tôi có cuộc trò chuyện với TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam.

Tăng trưởng đang tốt hơn năm trước

PV: Kinh tế Việt Nam đã đi được chặng đường nửa năm. Ông đánh giá như thế nào về tình hình kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại, thưa ông?

Những số liệu thống kê ban đầu cho thấy, trong những tháng đầu năm 2025, nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, nhiều chỉ số tăng trưởng tốt hơn so với cùng kỳ năm trước.

Kinh tế Việt Nam nửa đầu 2025: Tăng trưởng năm nay tốt hơn năm trước

Cụ thể, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê vừa công bố, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, nhờ ngành chế biến – chế tạo duy trì mức tăng 11%. Tổng doanh nghiệp bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 574,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,22 % so với cùng kỳ năm trước, được hỗ trợ bởi kỳ nghỉ 30/4 và 1/5 cùng với mùa hè khởi động sớm.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng là điểm sáng khi vốn đăng ký mới và tăng thêm gấp đôi so với cùng kỳ, tập trung vào chế biến–chế tạo và các dự án "xanh", phản ánh niềm tin dài hạn của nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.

Đáng chú ý, tại báo cáo mới công bố, tình hình giải ngân vốn đầu tư công tăng tốc rõ rệt, trong tháng 5 là 199.300 tỷ đồng, đạt 24,13% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn 2,5% về tỉ lệ và 56.000 tỷ đồng về số tuyệt đối so với cùng kỳ.

Ngành du lịch tăng trưởng tích cực với 9,2 triệu khách quốc tế đến Việt Nam, tăng 21,3% so với cùng kỳ.

Lạm phát tiếp tục nằm trong vùng an toàn với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 chỉ tăng 0,16 % so với tháng trước và 3,24 % so với cùng kỳ năm trước, giữ dư địa thuận lợi cho điều hành chính sách hỗ trợ.

Những con số sơ bộ này cho thấy, tình hình kinh tế hiện tại của nền kinh tế trong năm nay tốt hơn so với năm trước. Đặc biệt với quyết tâm của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh đang được đẩy mạnh. Và như vậy, có thể kỳ vọng tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ tốt hơn năm trước.

PV: Đâu sẽ là động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở thời điểm hiện tại?

Thực sự thì cho tới thời điểm hiện tại, động lực tăng trưởng quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam vẫn mang nhiều dấu ấn của sự đóng góp từ các yếu tố “ngoại”. Thể hiện rõ nhất là hoạt động xuất, nhập khẩu. Đây là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các tổng cầu của nền kinh tế - một chỉ dấu quan trọng của tăng trưởng.

Tính đến 31/5, cả nước có 44.000 dự án FDI, tổng vốn đăng ký đạt 517 tỷ USD; vốn thực hiện đạt 331,5 tỷ USD. Khu vực FDI đóng góp 20,5 tỷ USD vào ngân sách nhà nước năm 2024. Đây là con số rất đáng khen.

Lũy kế 5 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 24,3% kế hoạch, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2024. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện ước đạt 8,9 tỷ USD tăng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt 55,4 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2024, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 8,7 nghìn tỷ đồng, tăng 4,3%; vốn địa phương quản lý 46,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17,6%. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 221,8 nghìn tỷ đồng, bằng 24,3% kế hoạch năm và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ bằng 24,2% và tăng 3,9%).

Một yếu tố ngoại nữa là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đóng góp quan trọng trong tổng đầu tư. Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam bốn tháng đầu năm 2025 ước đạt 6,74 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, từ đó đóng góp đáng kể cho cấu phần đầu tư trong tổng cầu.

Các yếu tố nội như vốn đầu tư công cũng là động lực quan trọng. Giải ngân vốn đầu tư công đang có dấu hiệu bứt tốc khi ước đạt hơn 199.000 tỷ đồng sau 5 tháng đầu năm 2025, tương đương 24,1% kế hoạch Thủ tướng giao và cao hơn cùng kỳ năm trước.

Tiêu dùng cá nhân cũng duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Mức tăng gần 2 con số của chỉ số này trong 5 tháng đầu năm cũng là điều đáng khích lệ khi nhìn từ góc độ đâu là những động lực quan trọng cho tăng trưởng của nền kinh tế trong năm nay.

Kinh tế Việt Nam nửa đầu 2025: Tăng trưởng năm nay tốt hơn năm trước

PV: Còn những khó khăn, theo quan điểm của ông, đâu sẽ là những khó khăn mà nền kinh tế Việt Nam phải đối diện?

Vốn đầu tư công được kỳ vọng sẽ đóng góp mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế với tổng số vốn gần 829,4 nghìn tỷ đồng được phân bổ cho bộ, cơ quan và địa phương trong năm nay. Tuy nhiên, tính đến 30/4/2025 tức là sau 4 tháng, ước giải ngân chung cả nước mới là 128,5 nghìn tỷ đồng, đạt 15,56% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn cùng kỳ năm 2024 là 16,64%. Nhiều bộ ngành, địa phương chưa đạt được kết quả tích cực trong giải ngân vốn đầu tư công khi chỉ có 10/47 bộ, cơ quan Trung ương và 36/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trên trung bình. Sự chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư công có thể gây ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng trong năm nay.

Trong khi đó, đầu tư tư nhân vẫn chưa phục hồi mạnh mẽ. Trong quý I/2025, vốn đầu tư tư nhân đạt 361,5 nghìn tỷ đồng song chỉ tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng này thấp hơn so với mức tăng 13,7% của vốn thuộc khu vực Nhà nước và mức tăng tăng 9,3% của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những hạn chế về quy định pháp luật, các điểm nghẽn về thể chế, những khó khăn của môi trường kinh doanh vẫn chưa thực sự thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư tư nhân. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc sớm đưa Nghị quyết 68-NQ/TW vào cuộc sống để kinh tế tư nhân, đầu tư tư nhân sẽ sớm phát huy mạnh mẽ vai trò động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.

Kinh tế Việt Nam nửa đầu 2025: Tăng trưởng năm nay tốt hơn năm trước

PV: Cho tới nay, câu chuyện thuế đối ứng vẫn chưa hết nghi ngại. Vậy vấn đề thuế đối ứng sẽ tác động như thế nào tới tình hình xuất khẩu và tăng trưởng của Việt Nam?

Việc Mỹ công bố áp thuế đối ứng cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đã gây sốc với nhiều doanh nghiệp. Tuy việc áp dụng thuế đối ứng đã được thời trì hoãn, nhưng rủi ro về việc chịu mức thuế suất cao vẫn còn lơ lửng ở đó. Sắc thuế này nếu bị áp ở mức cao, đặc biệt là khi cao hơn so với các nền kinh tế khác có cùng mặt hàng đang được xuất khẩu vào Mỹ, sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực.

Mức thuế đối ứng cao nếu được áp dụng sẽ tác động đến xuất khẩu và các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của các hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ. Mức thuế 46% như dự tính ban đầu là mức thuế đặc biệt cao mà Việt Nam phải đối diện. Mức thuế cao này nếu được áp dụng có thể dẫn tới một sự giảm sút đáng kể về kim ngạch xuất khẩu do có tác động trực tiếp tới gần 1/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu thống kê năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 120 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Mức thuế này sẽ làm tăng giá thành sản phẩm của Việt Nam tại thị trường Mỹ, từ đó giảm tính cạnh tranh so với các đối thủ từ các quốc gia khác đặc biệt từ những nền kinh tế không chịu mức thuế cao như vậy ví dụ như Indonesia hay Ấn Độ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam, gây khó khăn trong việc mở rộng thị trường Mỹ, đồng thời dẫn đến giảm sút kim ngạch xuất khẩu, và gián tiếp làm suy giảm tăng trưởng kinh tế.

Suy giảm xuất khẩu vào thị trường Mỹ khó có thể được bù đắp lập tức bằng việc tăng xuất khẩu sang các thị trường khác, và do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang sản xuất hàng xuất khẩu hiện nay, ảnh hưởng tới việc làm và thu nhập của người lao động và ảnh hưởng tới sức mua và tiêu dùng trong nước.

Trong hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam có mức xuất siêu lớn sang Mỹ. Mức thuế cao sẽ gây ảnh hưởng tới cán cân thương mại hiện tại của Việt Nam. Rủi ro cán cân thương mại của Việt Nam sẽ quay trở lại trạng thái thâm hụt là có thể. Thâm hụt thương mại sẽ tạo áp lực lên cán cân thanh toán, và từ đó tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, lãi suất và các cân đối vĩ mô khác của nền kinh tế.

Việt Nam vẫn là điểm sáng trong thu hút FDI

PV: Còn với dòng vốn FDI thì sao, thưa ông?

Việt Nam vẫn là điểm sáng trong bản đồ thu hút nguồn vốn FDI. Việt Nam vẫn duy trì được tính hấp dẫn của mình đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhờ những lợi thế về sự ổn định chính trị, ổn định về kinh tế vĩ mô, chất lượng cơ sở hạ tầng ngày một được cải thiện, môi trường đầu tư kinh doanh không ngừng được nâng cấp và các nỗ lực về cải cách thể chế, cải cách quy định pháp luật và bộ máy mới đây được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao.

Kinh tế Việt Nam nửa đầu 2025: Tăng trưởng năm nay tốt hơn năm trước

Nhờ đó, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào nền kinh tế vẫn tăng mạnh trong thời gian vừa qua và đã đóng góp quan trọng trong tổng đầu tư. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam bốn tháng đầu năm 2025 ước đạt 6,74 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, từ đó đóng góp đáng kể cho đầu tư trong tổng cầu. Đáng chú ý là chất lượng của dòng vốn đầu tư nước ngoài đã được cải thiện nhiều về chất lượng khi ngày càng có nhiều hơn các dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn, vào các lĩnh vực công nghệ cao, đòi hỏi sử dụng nhiều hơn tri thức và kỹ năng và thân thiện hơn với môi trường, đóng góp cho quá trình chuyển dịch xanh, tăng trưởng xanh của nền kinh tế.

Nhưng cũng cần theo dõi chặt chẽ các rủi ro liên quan tới thuế đối ứng với dòng vốn đầu tư nước ngoài. Rủi ro về mức thuế cao cũng có thể khiến các nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc lại chiến lược đầu tư vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đó có thể cân nhắc các nền kinh tế khác có có thuế suất thấp hơn và từ đó ảnh hưởng tới dòng vốn đầu tư trực tiếp, và gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Chúng ta cần xây dựng các kịch bản khác nhau về mức thuế vốn đối ứng đồng thời xây dựng các chiến lược và biện pháp giảm thiểu rủi ro theo từng kịch bản, duy trì và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam đối với dòng vốn FDI vào Việt Nam.

PV: Cuối cùng, ông có khuyến nghị như thế nào để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng, thưa ông?

Những động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng vẫn cần được duy trì. Đối với đầu tư, trong khi đầu tư nước ngoài vẫn duy trì được tốc độ tăng khá, cần đặc biệt chú trọng để đảm bảo việc giải ngân vốn đầu tư công theo mục tiêu đề ra và đẩy mạnh hơn các biện pháp nhằm gia tăng đầu tư tư nhân, nhờ đó sẽ giúp tăng tổng đầu tư, tăng tổng cầu và đóng góp cho tăng trưởng. Những điểm nghẽn về quy định pháp luật, thực thi pháp luật, về chất lượng của các cơ quan thực thi pháp luật cần nhanh chóng được tháo gỡ để đẩy mạnh tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, để đầu tư tư nhân sẽ thực sự khởi sắc.

Ngoài các động lực truyền thống, tăng trưởng cao hơn cần được đóng góp bởi các yếu tố khác như cải thiện về năng suất các nhân tố tổng hợp (TPF), năng suất lao động, từ đổi mới, sáng tạo, từ thúc đẩy khoa học, công nghệ, cơ hội từ nền kinh tế số, từ nâng cấp kỹ năng của người lao động, hay chỉ thuần túy từ việc huy động và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả hơn nhờ sử dụng thuần thục các công cụ và cơ chế thị trường trong xây dựng pháp luật, trong quản lý và điều hành, từ việc tháo gỡ các vướng mắc pháp lý của những dự án dở dang, hoặc từ việc giảm lãng phí trong huy động và sử dụng nguồn lực.

Có rất nhiều dư địa, cơ hội trên nhiều lĩnh vực mà có thể được khai thác, chắt chiu để bổ sung cho các động lực truyền thống và đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra.

-Xin cảm ơn ông!