Trung Quốc là một trong những quốc gia tiêu thụ đậu tương lớn nhất thế giới, chủ yếu dùng trong thức ăn gia súc. Các doanh nghiệp dẫn đầu như Muyuan Foods đã tiên phong điều chỉnh tỷ lệ này từ 7,3% xuống còn 5,7% trong năm 2023; tương tự, Wens Foodstuff cũng duy trì ở mức 7,4% từ năm 2021. Tuy nhiên, nông dân nhỏ lẻ, vốn chiếm khoảng 1/3 tổng số hộ chăn nuôi lợn vẫn phụ thuộc vào mức từ 15 – 20%. Họ lo ngại rằng giảm tỷ trọng đậu tương quá nhanh có thể kéo chậm quá trình tăng trọng của vật nuôi, từ đó ảnh hưởng đến chu kỳ và lợi nhuận sản xuất.

Trong chiến lược đa dạng hóa nguồn protein chăn nuôi, Trung Quốc đã xác định những nguồn thay thế như bột hạt cải, bột cọ, cám gạo, bột cá và axit amin tổng hợp. Đồng thời, xu hướng tìm đến các nguồn "protein không ngũ cốc" như vi sinh vật, côn trùng, rơm lên men và cải thiện dùng chất thải nhà bếp đang tăng cường. Bắc Kinh đặt mục tiêu đạt sản lượng 10 triệu tấn loại protein này vào năm 2030.

Nếu Trung Quốc giảm nhập khẩu 1 mặt hàng, áp lực không chỉ dồn lên nông dân Mỹ mà còn hàng loạt thị trường lớn bị ảnh hưởng
Trung Quốc đang nuôi tham vọng giảm tỷ lệ nhập khẩu đậu tương xuống 10% vào năm 2030. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, các chuyên gia và doanh nghiệp đều cho rằng chi phí của những nguồn thay thế này vẫn cao hơn đáng kể so với đậu tương truyền thống. Vào cuối tháng 5, giá protein từ bột đậu tương tại miền Đông Trung Quốc vào khoảng 66 nhân dân tệ/đơn vị, thấp hơn so với lysine (79 nhân dân tệ) và protein từ ngô (69 nhân dân tệ). Vì vậy, trong hoàn cảnh các hộ chăn nuôi có tính toán lợi nhuận cụ thể, đậu tương rẻ vẫn giữ vai trò trung tâm.

Nếu Trung Quốc thực hiện được mục tiêu giảm tỷ trọng đậu tương và hạn chế nhập khẩu, tác động đầu tiên sẽ là sự sụt giảm nhập khẩu hàng triệu tấn đậu tương mỗi năm. Ước tính, mức giảm có thể lên đến 10 triệu tấn, tương đương một nửa lượng đậu tương trị giá khoảng 12 tỷ USD mà Trung Quốc nhập từ Mỹ trong năm 2024. Điều này không chỉ gây áp lực lên nông dân Mỹ, những người dựa vào thị trường xuất khẩu lớn này mà còn ảnh hưởng cả đến các đối thủ như Brazil và Argentina, vốn đang cung cấp một phần lớn nguồn nguyên liệu thay thế.

Nếu Trung Quốc giảm nhập khẩu 1 mặt hàng, áp lực không chỉ dồn lên nông dân Mỹ mà còn hàng loạt thị trường lớn bị ảnh hưởng
Một khi tỷ lệ nhập khẩu giảm, nông dân Mỹ và nhiều quốc gia xuất khẩu đậu tương khác sẽ gặp khó khăn. Ảnh minh họa

Thêm vào đó, việc Trung Quốc giảm nhập khẩu có thể dịu bớt giá đậu tương toàn cầu do giảm cầu từ thị trường khổng lồ này. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại là nếu thay thế hoàn toàn bằng các nguồn protein nhập khẩu khác sẽ tạo ra hiệu ứng lan truyền trên thị trường nguyên liệu, gây xáo trộn giá cả ở nhiều quốc gia xuất khẩu khác.

Trung Quốc cho thấy rõ tham vọng nâng cao năng lực tự cung protein chăn nuôi. Các chính sách khuyến khích đầu tư vào cơ sở chế biến bột hạt cải, phát triển nuôi côn trùng công nghiệp và tận dụng rơm rạ lên men đang được thúc đẩy. Nếu chính sách được triển khai đồng bộ và hiệu quả, nước này có thể tiến đến mức giảm mạnh nhập khẩu đậu tương, trong khi vẫn đảm bảo an ninh dinh dưỡng chăn nuôi.

Điều này không chỉ giảm rủi ro từ các biến động địa chính trị, như căng thẳng thương mại với Mỹ, mà còn góp phần bảo vệ ngành chăn nuôi nhỏ lẻ thông qua việc đa dạng hóa nguồn cung. Tuy nhiên, nếu thay đổi quá nhanh mà không hỗ trợ kỹ thuật, vốn và kết nối thị trường cho nông dân nhỏ, sẽ dễ khiến họ bị bỏ lại phía sau.