PGS.TS Ngô Trí Long: Hình thành cơ chế bảo vệ nhà đầu tư là điểm mới đột phá, thể hiện tư duy chiến lược của Nghị quyết 68

Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị vừa được ban hành đã thổi một luồng gió mới vào cộng đồng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, khơi dậy niềm tin mạnh mẽ vào những cải cách thể chế sâu rộng.

Để làm rõ những tác động, điểm nghẽn được tháo gỡ và cơ hội đang mở ra, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Ngô Trí Long – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) – người sẽ mang đến góc nhìn sắc sảo và toàn diện về "cú huých chính sách" này.

asset-1.png

PV: Phản ứng từ cộng đồng doanh nghiệp cho thấy kỳ vọng lớn vào Nghị quyết 68. Theo ông, đâu là những điểm nội dung sát thực tiễn, giải quyết trúng vướng mắc của khu vực tư nhân, và giải pháp nào trong Nghị quyết được xem là mang tính đột phá nhất?

PGS.TS Ngô Trí Long: Phản hồi tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp đối với Nghị quyết 68 cho thấy niềm tin đang được khơi dậy mạnh mẽ vào cải cách thể chế kinh tế, nhất là trong việc tháo gỡ điểm nghẽn cho khu vực kinh tế tư nhân - động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế.

Ba nội dung trong Nghị quyết được đánh giá là sát thực tiễn và được xem là "giải quyết trúng điểm nghẽn".

Một là, lần đầu tiên doanh nghiệp tư nhân được khẳng định là trụ cột trung tâm của nền kinh tế, với cam kết rõ ràng về "bảo vệ quyền tài sản hợp pháp và vị thế bình đẳng với các thành phần kinh tế khác". Đây là bước đi có tính nền tảng, phản ánh đúng vai trò thực tế khi khu vực tư nhân hiện đóng góp gần 45% GDP và tạo ra hơn 85% việc làm phi nông nghiệp.

Hai là, cam kết cải cách thủ tục hành chính và tháo gỡ rào cản pháp lý: Nghị quyết yêu cầu "Kiểm soát quyền lực trong ban hành và thực thi chính sách kinh tế"- một bước đi cụ thể nhằm khắc phục tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, “cát cứ chính sách” tại địa phương. Đây là phản ứng trúng thực tiễn khi 57% doanh nghiệp trong khảo sát PCI 2024 cho biết gặp khó khăn do sự thiếu nhất quán giữa các địa phương.

Ba là, Nghị quyết tập trung tháo gỡ các vướng mắc lớn về đất đai, tín dụng và thủ tục đầu tư - những điểm nghẽn kéo dài của doanh nghiệp tư nhân khi tiếp cận đất do chồng chéo pháp lý giữa Luật Đất đai, Luật Đầu tư, và Luật Quy hoạch. Việc chỉ đạo triển khai cơ chế “một cửa liên thông” trong phê duyệt đầu tư và cấp quyền sử dụng đất, lấy kinh nghiệm từ các địa phương như Bình Dương, Bắc Ninh, được xem là giải pháp thiết thực và có tính khả thi cao.

Theo tôi, giải pháp mang tính đột phá nhất của Nghị quyết 68 là việc "Hình thành cơ chế bảo vệ nhà đầu tư và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo". Đây là điểm mới nổi bật thể hiện rõ tư duy chiến lược về phát triển kinh tế số và kinh tế xanh. Việc hình thành Quỹ bảo vệ rủi ro cho nhà đầu tư khởi nghiệp theo mô hình Singapore, Hàn Quốc sẽ góp phần xây dựng hệ sinh thái đầu tư an toàn, khắc phục điểm yếu về vốn mạo hiểm mà Việt Nam đang gặp phải khi chỉ thu hút được 49 triệu USD trong năm 2024 - quá nhỏ so với Indonesia (2024: 1,5 tỷ USD) hay Thái Lan (420 triệu USD). Việc tạo lập "Hệ sinh thái đầu tư an toàn" là điều kiện tiên quyết để thu hút dòng vốn chất lượng.

Tổng thể, Nghị quyết 68 đánh dấu bước ngoặt trong tư duy quản lý nhà nước, chuyển từ mô hình “quản lý - cấp phép” sang “kiến tạo - đồng hành”, qua đó khẳng định vai trò trung tâm của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, đây chính là giải pháp nội sinh bền vững để tạo động lực tăng trưởng mới cho Việt Nam.

asset-2.png
1.jpg

PV: Thưa ông, mục tiêu đến năm 2030 tăng gấp đôi số doanh nghiệp tư nhân và có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu có tính khả thi như thế nào? Đặc biệt ở những ngành nào cần được ưu tiên và chính sách nào là then chốt để đạt được điều đó?

PGS.TS Ngô Trí Long: Mục tiêu tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu là tham vọng hoàn toàn chính đáng, nhưng không tự đến nếu thiếu sự chủ động, chọn lọc và kiên trì.

Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có khoảng 940.078 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm gần 98,9% tổng số doanh nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, với doanh nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 2,5% (khoảng 25.000 doanh nghiệp), trong đó doanh nghiệp tư nhân lớn chiếm khoảng 1/3. Về tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, hiện chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp Việt Nam thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chiếm khoảng 0,5% tổng số doanh nghiệp. Trong số này, chỉ có khoảng 100 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 1.

Như vậy, muốn Việt Nam không chỉ là công xưởng của thế giới mà còn là mắt xích chiến lược trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhất định phải đầu tư trọng điểm vào 3 ngành có lợi thế cạnh tranh bền vững.

Công nghiệp bán dẫn và công nghệ cao: Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm nhân lực bán dẫn toàn cầu vào năm 2030.

Công nghiệp hỗ trợ và sản xuất linh kiện: Ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là sản xuất linh kiện điện tử, đang thu hút nhiều vốn FDI và có tiềm năng lớn để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Công nghiệp hóa dược: Chương trình Phát triển Công nghiệp Hóa Dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được phê duyệt, nhằm đưa ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh vững mạnh trên thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, không có chính sách đột phá, sẽ không thể có vị thế đột phá trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, để đạt được mục tiêu đề ra, cần triển khai đồng bộ các chính sách sau:

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Đầu tư vào giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong các lĩnh vực STEM, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành công nghệ cao.

Hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ: Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh.

Cải thiện môi trường kinh doanh: Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI: Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI để thúc đẩy chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý phát triển hạ tầng công nghiệp và logistics để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và xuất khẩu.

2.jpg

PV: Theo ông, các giải pháp về đất đai, vốn, nhân lực, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong Nghị quyết 68 liệu đã đủ mạnh và sát với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp tư nhân? Cần thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá như thế nào để đảm bảo chính sách được triển khai thực chất, tránh hình thức và trục lợi?

-PGS.TS Ngô Trí Long: Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, tuy nhiên đánh giá một cách thẳng thắn thì các giải pháp hiện hành chưa đủ mạnh, còn thiếu tính thực tiễn và chưa tương thích với đặc thù của doanh nghiệp tư nhân - vốn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu vốn, thiếu năng lực công nghệ, và dễ tổn thương.

Tiếp cận đất đai: Rào cản cố hữu, cải cách còn chậm. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2023, có tới 41,2% doanh nghiệp phản ánh gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, đặc biệt là tại các địa phương phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tình trạng quy hoạch chậm, thiếu minh bạch trong đấu giá, giá thuê đất cao không tương xứng với hạ tầng, đã làm giảm khả năng đầu tư mở rộng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).

Tiếp cận vốn: Chính sách nhiều, thực thi yếu. Dù Chính phủ triển khai nhiều gói tín dụng hỗ trợ như gói 40.000 tỷ đồng cho lãi suất ưu đãi (Nghị định 31/2022/NĐ-CP), nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2023, chỉ khoảng 4.100 tỷ đồng được giải ngân, tức mới đạt khoảng 10,3% tổng quy mô. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện tiếp cận tín dụng vẫn khắt khe, DNNVV thiếu tài sản thế chấp, lịch sử tín dụng yếu, hồ sơ phức tạp.

Nhân lực: chênh lệch cung - cầu kỹ năng. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến cuối năm 2023, hơn 47% lao động Việt Nam chưa qua đào tạo chính quy, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, logistics, tài chính kỹ thuật số. Doanh nghiệp phải tự đào tạo lại hoặc chi phí lớn cho đào tạo, gây lãng phí nguồn lực và kéo dài thời gian thích nghi công nghệ mới.

Chuyển đổi số: chưa đồng đều, thiếu hỗ trợ thực chất. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2024, chỉ có khoảng 17% DNNVV có mức độ chuyển đổi số từ trung bình trở lên. Khó khăn lớn nhất là thiếu kiến thức, thiếu nhân lực chuyên môn, và chi phí đầu tư ban đầu cao. Các chương trình hỗ trợ chuyển đổi số còn mang tính tuyên truyền, thiếu hướng dẫn cụ thể và không đồng hành dài hạn.

Đổi mới sáng tạo: Thiếu hệ sinh thái đủ lực để nâng đỡ doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù Việt Nam xếp thứ 46/132 quốc gia về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII 2023), nhưng doanh nghiệp tư nhân vẫn đóng góp hạn chế do thiếu liên kết với viện nghiên cứu, thiếu vốn đầu tư mạo hiểm và khung pháp lý thử nghiệm chưa hoàn thiện. Khoảng 60% startup hiện nay không tồn tại quá 3 năm, cho thấy hệ sinh thái còn yếu và thiếu tính bền vững.

Để đảm bảo các chính sách được thực hiện thực chất, hiệu quả và tránh bị trục lợi, cần xây dựng các cơ chế giám sát, đánh giá có tính hệ thống.

Bao gồm: Giám sát độc lập và phản biện xã hội. Tăng cường vai trò của các tổ chức như VCCI, Hội Doanh nhân trẻ, hiệp hội ngành nghề trong việc phản ánh tiếng nói doanh nghiệp, đánh giá chính sách từ thực tiễn; Xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông và công khai. Triển khai hệ thống dashboard quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp để công khai tiến độ thực hiện chính sách, tỷ lệ giải ngân, số lượng doanh nghiệp được hưởng lợi theo từng tỉnh/thành; Lồng ghép đánh giá chính sách vào quy trình ngân sách. Tất cả các chính sách hỗ trợ cần có đánh giá tiền khả thi (ex-ante), giám sát trong quá trình thực thi, và đánh giá hiệu quả (ex-post) bởi đơn vị độc lập như Tổng cục Thống kê hoặc nhóm chuyên gia học thuật.

Có chế tài nghiêm với hành vi trục lợi chính sách. Minh bạch tiêu chí thụ hưởng; xử lý nghiêm các hành vi làm giả hồ sơ, chia nhỏ doanh nghiệp để nhận hỗ trợ kép, lợi dụng ưu đãi về thuế, đất đai.

Rõ ràng, chính sách đã có nền tảng, nhưng vẫn thiếu lực đẩy thực chất. Nếu không có cơ chế giám sát minh bạch, độc lập và ràng buộc trách nhiệm rõ ràng, chính sách sẽ tiếp tục bị “chệch hướng”, dẫn đến thất thoát nguồn lực và làm suy yếu niềm tin của doanh nghiệp tư nhân – vốn đang rất cần được hỗ trợ một cách thiết thực.

asset-3.png

PV: Ông đánh giá thế nào về khả năng đồng hành của các địa phương trong việc triển khai Nghị quyết 68? Có nên có cơ chế phân cấp, thi đua hay chịu trách nhiệm cụ thể cho địa phương không?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết 68 xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, với mục tiêu đến năm 2030 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10–12%/năm, đóng góp khoảng 55–58% GDP, giải quyết việc làm cho khoảng 84–85% tổng số lao động. Để biến mục tiêu thành hiện thực, vai trò của các địa phương là hết sức then chốt – bởi chính tại cấp địa phương, doanh nghiệp vận hành, tương tác với chính quyền, và cảm nhận rõ nhất về môi trường kinh doanh.

Trước hết, địa phương cần chủ động cụ thể hóa các định hướng lớn từ Nghị quyết thành hành động thiết thực, phù hợp với đặc thù địa bàn. Ví dụ: tỉnh có thế mạnh công nghiệp cần ưu tiên phát triển hạ tầng khu công nghiệp, logistics; địa phương nông nghiệp cần hỗ trợ chế biến sâu và truy xuất nguồn gốc.

Thứ hai, môi trường kinh doanh cấp tỉnh phải là nơi “thân thiện nhất” với doanh nghiệp tư nhân. Cải cách hành chính không thể chỉ ở trung ương, mà phải đo đếm bằng thời gian xử lý hồ sơ, chi phí không chính thức giảm đi, và quyền tiếp cận đất đai, tín dụng, công nghệ của doanh nghiệp được cải thiện rõ rệt.

Thứ ba, để các địa phương thực sự vào cuộc, cần một cơ chế ba trụ cột: phân cấp – thi đua – trách nhiệm.

- Phân cấp phải đi kèm với trao quyền thực chất cho địa phương, không chỉ dừng ở thực hiện mà cả trong việc điều chỉnh chính sách linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương.

- Thi đua cần được gắn với các chỉ số định lượng cụ thể: số lượng doanh nghiệp thành lập mới, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân trong cơ cấu kinh tế địa phương, mức độ cải thiện PCI, chỉ số tiếp cận đất đai, tín dụng...

- Trách nhiệm cần quy về rõ ràng cho từng cấp chính quyền, từng sở, ngành –ai hỗ trợ khởi nghiệp, ai giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp, ai chịu trách nhiệm nếu doanh nghiệp rời đi.

Tôi nhấn mạnh, nếu Trung ương là “người vạch đường”, thì địa phương chính là “người trực tiếp cầm cờ chạy”. Sự chủ động, đồng hành và sáng tạo của các tỉnh, thành sẽ là yếu tố quyết định thành bại trong việc hiện thực hóa mục tiêu đưa kinh tế tư nhân trở thành trụ cột của nền kinh tế theo đúng tinh thần Nghị quyết 68.

PV: Nghị quyết 68 khẳng định doanh nhân là 'chiến sĩ trên mặt trận kinh tế'. Theo ông, doanh nghiệp tư nhân cần làm gì cụ thể để nắm bắt cơ hội, vượt thách thức và thực sự trở thành trụ cột tăng trưởng như kỳ vọng?

PGS.TS Ngô Trí Long: Để hiện thực hóa vai trò “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cần hành động một cách chủ động, bài bản và có chiều sâu chiến lược. Nghị quyết 68 đã mở ra cơ hội lớn, nhưng để nắm bắt và biến cơ hội thành sức mạnh cạnh tranh dài hạn, khu vực tư nhân cần tập trung vào 5 nhóm giải pháp trọng yếu:

1. Nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo: Doanh nghiệp tư nhân cần đầu tư nghiêm túc cho R&D và chuyển đổi số, không chỉ dừng ở khâu sản xuất mà xuyên suốt chuỗi giá trị – từ quản trị đến tiếp thị và hậu mãi. Bên cạnh đó, việc phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là kỹ năng số và tư duy toàn cầu, là điều kiện bắt buộc để doanh nghiệp trụ vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.

2. Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu: Hiện 94% doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Nếu không có liên kết, họ sẽ mãi là người làm thuê trong chuỗi cung ứng. Doanh nghiệp cần chủ động tham gia vào chuỗi giá trị của các tập đoàn lớn trong và ngoài nước để học hỏi và nâng cao năng lực; Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, từ đó mở rộng thị trường xuất khẩu.

3. Chủ động tận dụng chính sách hỗ trợ từ Nhà nước: Nghị quyết 68 đưa ra hàng loạt cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, như tín dụng xanh, quỹ đầu tư mạo hiểm, cải cách thủ tục hành chính... Tuy nhiên, chính doanh nghiệp phải là người biết dùng công cụ để phát triển bền vững. Ví dụ, gần đây nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao như RYNAN Smart Fertilizers đã tận dụng chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo để triển khai công nghệ tưới thông minh, tiết kiệm 30% chi phí canh tác cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long

4. Phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội: Trong bối cảnh thế giới ngày càng đề cao ESG (môi trường – xã hội – quản trị), doanh nghiệp không thể tăng trưởng bằng mọi giá. Việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải carbon, và đảm bảo quyền lợi người lao động không chỉ là trách nhiệm mà còn là chiến lược sống còn.

5. Xây dựng thương hiệu quốc gia: Thương hiệu không chỉ là hình ảnh mà là "sức mạnh mềm" của doanh nghiệp Việt trên trường quốc tế. Doanh nghiệp cần đầu tư chuyên nghiệp vào thiết kế, truyền thông, đăng ký sở hữu trí tuệ và tham gia hệ sinh thái quốc tế để nâng cao vị thế. Như trường hợp của Cà phê Trung Nguyên hay VinFast – hai thương hiệu đã đưa hình ảnh “Made in Vietnam” ra toàn cầu, cạnh tranh sòng phẳng với các tên tuổi lớn.

Doanh nhân ngày nay không chỉ là người kiếm lợi nhuận, mà là người tạo ra giá trị cho nền kinh tế, cho xã hội và cho hình ảnh quốc gia. Để xứng đáng với vị thế “chiến sĩ kinh tế” như Nghị quyết 68 khẳng định, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cần bản lĩnh, đổi mới, kiên định trong chiến lược phát triển và dám bứt phá.

asset-5.png
3.jpg

PV: Dưới tác động của Nghị quyết 68 và các chính sách hỗ trợ, ông dự đoán sẽ có sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề như thế nào trong khu vực kinh tế tư nhân? Liệu các ngành công nghệ cao, dịch vụ giá trị gia tăng hay các ngành kinh tế xanh có thu hút được nhiều doanh nghiệp tư nhân hơn không?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết 68 không chỉ khẳng định vai trò then chốt của khu vực tư nhân, mà còn định hướng rõ tái cấu trúc đầu tư theo hướng “đổi mới sáng tạo, số hóa và phát triển bền vững”. Điều này sẽ thúc đẩy sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề trong khu vực kinh tế tư nhân theo 3 xu hướng chính:

Tăng tỷ trọng đầu tư vào công nghệ cao. Tác động từ các chính sách như ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho lĩnh vực R&D, quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, và đầu tư công vào hạ tầng số đang tạo ra một làn sóng đầu tư mới. Đến cuối năm 2024, các startup công nghệ chiếm hơn 5% tổng số doanh nghiệp tư nhân - gấp đôi so với năm 2019. Xu hướng này được dự báo sẽ tăng tốc, đặc biệt trong các ngành trọng điểm như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học và vật liệu mới. Nếu chính sách tiếp tục đồng bộ, đến năm 2030, khu vực tư nhân có thể đóng góp trên 10% tổng vốn đầu tư vào các ngành công nghệ cao, gấp gần 2 lần mức hiện nay.

Dịch chuyển mạnh sang lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng. Các ngành như logistics thông minh, thương mại điện tử, tài chính số, giáo dục và y tế tư nhân ứng dụng công nghệ cao đang tăng trưởng trung bình 12–15%/năm. Tính đến cuối quý I/2025, khu vực dịch vụ chiếm tới 42,7% GDP, trong đó khối tư nhân đóng góp hơn 60% giá trị gia tăng của các ngành dịch vụ hiện đại. Với việc đẩy mạnh kết nối hạ tầng số và khuyến khích đầu tư ngoài ngân sách, khu vực dịch vụ tư nhân được kỳ vọng trở thành “đầu tàu mới” trong tăng trưởng.

Gia tăng đầu tư vào các ngành kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Với sự hậu thuẫn từ chính sách tín dụng xanh, miễn giảm thuế carbon, và cam kết trung hòa khí carbon đến năm 2050, các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, giao thông xanh và du lịch sinh thái đang thu hút mạnh dòng vốn tư nhân. Chỉ riêng số doanh nghiệp năng lượng tái tạo đã tăng từ 845 (năm 2020) lên gần 2.000 vào cuối 2024. Theo ước tính của IFC, Việt Nam cần khoảng 753 tỷ USD đầu tư xanh đến 2030, trong đó khu vực tư nhân có thể chiếm trên 50% – minh chứng rõ cho tiềm năng tăng trưởng xanh gắn liền với doanh nghiệp.

Nghị quyết 68 là cú hích chính sách quan trọng thúc đẩy khu vực tư nhân cơ cấu lại đầu tư theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, tăng cường đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Trong 5–10 năm tới, các ngành công nghệ cao, dịch vụ số và kinh tế xanh sẽ trở thành tâm điểm thu hút dòng vốn tư nhân, thay thế dần các ngành truyền thống có giá trị gia tăng thấp.

PV: Ông hình dung sự thay đổi của cộng đồng kinh tế tư nhân Việt Nam trong 5-10 năm tới dưới tác động của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị này như thế nào?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết 68 không chỉ là một định hướng – nó là “cú huých chính sách” có thể tái cấu trúc diện mạo khu vực kinh tế tư nhân trong một thập kỷ tới. Dưới tác động của nghị quyết này, tôi hình dung sự thay đổi sẽ diễn ra theo 3 chiều sâu sắc sau:

Tăng trưởng về cả lượng và chất

Chúng ta sẽ chứng kiến sự “thay da đổi thịt” của hàng chục nghìn doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Không chỉ tăng về số lượng, mà quan trọng hơn, nhiều doanh nghiệp sẽ chuyển đổi từ mô hình gia đình sang mô hình quản trị hiện đại, bài bản. Ví dụ, các doanh nghiệp như Thiên Long, Bitis hay Vinamilk từng là doanh nghiệp tư nhân vừa, sẽ có thêm nhiều “người đồng hành” mới vươn tầm khu vực nhờ môi trường kinh doanh minh bạch và hỗ trợ hiệu quả.

Trong lĩnh vực công nghệ: Nhiều startup như MISA, Base.vn hay VNG – ban đầu chỉ là những công ty phần mềm nhỏ, đang có cơ hội bứt phá trở thành doanh nghiệp số chủ lực, cung cấp nền tảng quản trị cho hàng trăm nghìn doanh nghiệp trong nước và tiến tới thị trường khu vực. Trong lĩnh vực nông nghiệp: Các doanh nghiệp như Nafoods hay Vinamit – vốn xuất phát từ sản xuất nông sản thô, đang chuyển mình mạnh mẽ sang chế biến sâu, ứng dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch và truy xuất nguồn gốc để xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu...

Nâng tầm cạnh tranh thông qua công nghệ và chuyển đổi số:

Chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nâng cao năng suất sẽ giúp doanh nghiệp tư nhân bứt phá. Ví dụ, nhiều doanh nghiệp sản xuất truyền thống trong ngành cơ khí, dệt may có thể áp dụng mô hình nhà máy thông minh, tích hợp ERP và tự động hóa – điều từng là xa vời với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trở thành lực đẩy chủ lực của nền kinh tế:

Tôi tin rằng, đến năm 2030, khu vực kinh tế tư nhân có thể chiếm trên 55% GDP, đóng góp khoảng 70% lực lượng lao động xã hội và tạo ra hàng triệu việc làm có thu nhập ổn định. Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến – chế tạo, khu vực này sẽ giữ vai trò chủ lực trong xuất khẩu, với sự trỗi dậy của các doanh nghiệp lớn như Thaco Auto đang mở rộng xuất khẩu ô tô và linh kiện sang ASEAN, hay Hòa Phát, Hoa Sen là những doanh nghiệp nội địa chiếm lĩnh thị phần vật liệu xây dựng tại nhiều thị trường quốc tế... Chúng ta sẽ được chứng kiến nhiều “kỳ lân” công nghệ mới xuất hiện, như cách MoMo hay VNG từng vươn ra châu Á. Đây chính là hình ảnh một khu vực kinh tế tư nhân trưởng thành: năng động, đổi mới, và đủ sức dẫn dắt tăng trưởng bền vững trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Tóm lại, nếu thực thi đồng bộ và quyết liệt, Nghị quyết 68 sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp tư nhân “lớn lên” mà còn “lớn mạnh”, đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn đa quốc gia, vươn tầm khu vực và toàn cầu.