"Chúng tôi đã chờ đợi Nghị quyết này nhiều chục năm nay", ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Tân Long, mở đầu phần chia sẻ tại Hội thảo "Xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường", mới đây với giọng đầy xúc động.

Theo ông, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị không chỉ là một bước ngoặt chính sách, mà còn là “một nhân duyên đặc biệt với doanh nhân”, bởi hiếm khi có một văn kiện chính trị cấp cao nào lại xác lập vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân một cách thẳng thắn và mạnh mẽ đến vậy.

Nhưng ông cũng nhấn mạnh, tư duy chính sách phải đi cùng hành động cụ thể: Từ cải cách thủ tục hành chính, cải tiến cơ chế hậu kiểm, đến lãi suất hỗ trợ đặc thù cho lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

“Chúng tôi rất mong Nghị quyết 68 không chỉ là tinh thần, mà trở thành hành động thực chất, lan tỏa đến từng cấp thực thi, từng quy định pháp luật. Chỉ khi đó, doanh nghiệp mới thực sự được tiếp sức để vươn ra toàn cầu,” ông kỳ vọng.

Chủ tịch Tân Long Group: Mất 3 năm chờ thủ tục, chúng tôi buộc phải đi đường vòng, chấp nhận giá đất tăng từ 500 triệu lên hơn 1 tỷ/ha

Ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Long. Ảnh: Độc Lập.

Mỗi hecta đất đội thêm 500 triệu chỉ vì thủ tục kéo dài 3 năm

Về tác động từ chính sách đối ứng của Mỹ, ông Bá cho biết, mảng nông nghiệp của Tân Long hiện không bị ảnh hưởng, thậm chí ngành chăn nuôi còn đang được hưởng lợi gián tiếp. Nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi giảm mạnh do cạnh tranh toàn cầu, giúp giảm chi phí đầu vào, chiếm tới 70% giá thành nuôi heo.

"Điều này tạo điều kiện thuận lợi để Tân Long tiếp tục theo đuổi mục tiêu tự lực, tự cường trong chăn nuôi, giảm phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc", ông Bá cho hay.

Là một tập đoàn có mặt trên cả 3 lĩnh vực trụ cột: Lúa gạo, chăn nuôi và nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, Tân Long đang đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng sản xuất và chế biến nông sản hiện đại.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất không nằm ở công nghệ hay thị trường, mà nằm ở thủ tục.

Theo ông Bá, mỗi dự án trang trại từ lúc mua đất trong vùng quy hoạch chăn nuôi đến khi được phép khởi công và đưa vào vận hành phải mất ít nhất 3 năm, thậm chí lâu hơn. Trong khi thị trường và cơ hội không chờ đợi, thì chính sự chậm trễ của thủ tục khiến doanh nghiệp không thể đi nhanh, đi mạnh hay mở rộng đúng thời điểm.

“Chúng tôi buộc phải tránh các dự án làm từ đầu, chuyển đường vòng sang mua lại các dự án đã hoàn tất thủ tục pháp lý để tiết kiệm thời gian. Nhưng hệ quả là chi phí đội lên rất lớn,” ông Bá nói.

Thực tế cho thấy, nếu tự mua đất và làm thủ tục từ đầu, doanh nghiệp chỉ phải chi khoảng 400–500 triệu đồng/ha. Nhưng khi mua lại dự án đã có đủ giấy phép xây dựng, mức giá có thể tăng gấp đôi, lên tới hơn 1 tỷ đồng/ha.

“Giá đất bị đẩy lên không phải vì giá trị thực, mà vì thủ tục quá lâu khiến người đi trước phải cộng thêm chi phí cơ hội vào đó. Mà doanh nghiệp như chúng tôi, nếu muốn mở rộng nhanh, buộc phải chấp nhận,” ông nói thêm.

Một ví dụ khác là Luật Cạnh tranh 2018. Với quy định rằng bất kỳ thương vụ sáp nhập hay mở rộng nào trên 3.000 tỷ đồng phải báo cáo với Uỷ ban cạnh tranh và phải chờ thẩm định đến 90 ngày, thậm chí lâu hơn để được cho phép, Tân Long trong quá trình mở rộng nhanh để đạt mục tiêu 10 triệu con heo thương phẩm trước 2030, liên tục bị ách tắc.

“Luật là cần thiết để tránh độc quyền, nhưng nên hướng đến cơ chế hậu kiểm thay vì tiền kiểm kéo dài. Một doanh nghiệp đang lớn nhanh mà cứ phải dừng lại để xin phép thì không khác gì mất cơ hội,” ông Bá đề xuất.

Chủ tịch Tân Long Group: Mất 3 năm chờ thủ tục, chúng tôi buộc phải đi đường vòng, chấp nhận giá đất tăng từ 500 triệu lên hơn 1 tỷ/ha
Ông Bá kiến nghị ngân hàng xem xét lãi suất ưu đãi hơn cho ngành nông nghiệp, nhưng ưu tiên cho đầu tư về cơ sở hạ tầng, chế biến, sản xuất và bảo quản sau thu hoạch.

Cần trợ lực lãi suất cho nông nghiệp hiện đại

Là một trong những doanh nghiệp có bước tiến bài bản trong đầu tư công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch, Tân Long đã đưa gạo thương hiệu A An vào thị trường Nhật Bản – nơi nổi tiếng với yêu cầu kiểm nghiệm khắt khe bậc nhất thế giới.

“Chúng tôi đã xuất hơn 5.000 tấn gạo với thương hiệu đúng tên của Việt Nam A An luôn chứ không có mang một nhãn nào khác sang Nhật từ năm 2024, và dự kiến đạt gần 30.000 tấn trong năm 2025. Đây là điều chưa bao giờ Việt Nam đạt được với sản lượng như vậy. Hiệu quả của mỗi nghìn tấn vào Nhật cao hơn cả chục nghìn tấn bán thông thường, vì giá trị gia tăng rất cao,” ông Bá cho biết.

Tuy nhiên, để đạt tiêu chuẩn xuất vào Nhật, doanh nghiệp phải kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ở mức cực kỳ nghiêm ngặt với hơn 600 chỉ tiêu, do đó, việc đầu tư công nghệ là điều tất yếu. Nhưng chi phí lãi vay từ 8–10%/năm lại là một rào cản lớn với ngành có biên lợi nhuận thấp như nông nghiệp.

Ông Bá đề xuất Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách lãi suất ưu đãi hơn, đặc biệt dành riêng cho các doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng chế biến, bảo quản, kho dự trữ, hệ thống sấy – những mắt xích đang còn yếu và gây thất thoát lớn, đặc biệt tại Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo thống kê mà ông dẫn lại từ Bộ Nông nghiệp, thất thoát sau thu hoạch có thể lên tới 15–30%, chỉ vì không kịp sấy, không đủ kho dự trữ vào vụ cao điểm.