Theo Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015, những người sau đây sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản; xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.

- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác nhằm chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản.

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập di chúc; giả mạo, sửa chữa, hủy hoặc che giấu di chúc nhằm hưởng di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 621 cũng quy định, nếu người để lại di sản đã biết rõ hành vi vi phạm nhưng vẫn cho phép họ hưởng di sản theo di chúc thì những người này vẫn có quyền thừa kế.

Điều đó có nghĩa, nếu con cái vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ, thì về nguyên tắc sẽ không được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Ngoại lệ chỉ áp dụng khi cha mẹ (người để lại di sản) đã biết sự việc nhưng vẫn để lại di chúc cho họ.

Hai công ty thuộc Tập đoàn Đất Xanh bị khách hàng tố cáo
Theo khoản 2 Điều 621, nếu người để lại di sản đã biết rõ hành vi vi phạm nhưng vẫn cho phép thì người đó vẫn được hưởng quyền thừa kế. Ảnh minh họa

Điều kiện để thực hiện thừa kế quyền sử dụng đất

Theo khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024, người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện:

- Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hoặc các loại Giấy chứng nhận hợp pháp khác theo quy định. (Trừ một số trường hợp đặc biệt như thừa kế quyền sử dụng đất khi dồn điền đổi thửa, tặng cho Nhà nước, cộng đồng dân cư, hoặc theo quy định tại khoản 7 Điều 124 và điểm a khoản 4 Điều 127 Luật Đất đai 2024.)

- Đất không có tranh chấp, hoặc tranh chấp đã được giải quyết và có hiệu lực pháp luật.

- Quyền sử dụng đất không bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.

- Còn trong thời hạn sử dụng đất.

- Không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định pháp luật.

Thời hiệu thừa kế quyền sử dụng đất

Theo quy định hiện hành, thời hiệu để yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, tính từ thời điểm mở thừa kế.

Khi hết thời hạn này, di sản sẽ thuộc về người đang quản lý; nếu không có người quản lý, di sản sẽ được giải quyết theo hướng thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo Điều 236 Bộ luật Dân sự hoặc thuộc về Nhà nước nếu không có người chiếm hữu.

Thời hiệu để yêu cầu xác nhận hoặc bác bỏ quyền thừa kế là 10 năm, còn thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là 3 năm, đều tính từ thời điểm mở thừa kế.