Tại Nghị quyết, nhiều hạn chế, yếu kém của ngành năng lượng được nhìn nhận thẳng thắn. Cụ thể, một số hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Nghị quyết 55 vẫn chưa được khắc phục triệt để; nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết 55 khó đạt được.

Bên cạnh đó, thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập. Tiến độ thực hiện nhiều dự án điện còn chậm; tiềm năng về năng lượng chưa được khai thác hiệu quả.

Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, nguy cơ thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng hai con số là hiện hữu. Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ.

Ngoài ra, hệ thống điện phát triển chưa đồng bộ, thông minh; lưới điện chưa kết nối hiệu quả với các dự án nguồn. Công nghệ trong một số lĩnh vực chậm được đổi mới; tỷ lệ nội địa hóa đối với một số thiết bị quan trọng chưa cao.

Chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một số lĩnh vực còn thấp; thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, nhất là thị trường điện còn nhiều hạn chế; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường; vẫn còn tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng.

Điểm nghẽn ngành năng lượng Việt Nam: Nguyên nhân và giải pháp
Ảnh minh họa - Nguồn: VGP

Nghị quyết nêu rõ, những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau: nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của ngành năng lượng đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhất là cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phát triển năng lượng, khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, quy hoạch điều chỉnh thiếu linh hoạt, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, việc tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ, nhất là quy hoạch điện.

Bên cạnh đó, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp. Chiến lược phát triển năng lượng, đặc biệt trong ngành điện chưa ổn định, đồng bộ; chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và một số ngành liên quan.

Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về năng lượng chưa quyết liệt, toàn diện, đồng bộ; chưa chú trọng các biện pháp quản trị và ứng phó rủi ro; công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chưa hiệu quả. Chưa tạo được đột phá về ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong ngành năng lượng.

Trước những hạn chế trên, Nghị quyết cũng nêu ra những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cần thực hiện. Cụ thể, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong bảo đảm an ninh năng lượng.

Bên cạnh đó, hoàn thiện thể chế, chính sách để trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển năng lượng; phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng.

Ngoài ra, đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện linh hoạt cam kết quốc tế về giảm phát thải, thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro. Tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng.

Đồng thời, tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng; tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.