Nhận thức về chuyển đổi xanh của doanh nghiệp đã thay đổi
Tại Hội thảo “Khơi thông dòng vốn tín dụng xanh” nhằm làm rõ vai trò của tín dụng xanh trên hành trình chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, TS. Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) cho rằng, chuyển đổi xanh đang trở thành “một cuộc đua” ở cấp độ toàn cầu khi nhìn sang các thị trường lớn như EU, Mỹ, Trung Quốc,…
Những diễn biến gần đây nhất từ "Trump 2.0" đã tác động đến chuyển đổi xanh, khiến thế giới lo ngại về việc Mỹ rút khỏi cam kết toàn cầu về khí hậu. Việc tuyên bố, thực thi đã gặp phải những rào cản, nhưng xu hướng dài hạn của thế giới vẫn phải đi theo con đường xanh chung.
![]() |
Nhận thức về chuyển đổi xanh của doanh nghiệp đã thay đổi. |
Ông Minh cho rằng, Việt Nam cần tham gia với quyết tâm và nỗ lực tương xứng với cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ tại COP26, COP27, COP28 để khẳng định sự tiên phong của quốc gia cũng như tranh thủ một cách hiệu quả các nguồn lực quốc tế trong bối cảnh chuyển đổi xanh.
Chuyển đổi xanh không đơn thuần là một số chính sách đơn lẻ mà gồm hệ thống các chính sách cùng thiết kế chương trình thực thi chính sách để chuyển đổi từ đầu tư, thương mại, phát triển các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy các sáng kiến xanh…đến các hoạt động giảm phát thải trong thực tế.
Thực hiện các khảo sát theo từng năm, ông Minh nhận ra rằng, nhận thức của doanh nghiệp đã có sự tiến bộ. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp mới chỉ dừng ở mức quan tâm hoặc có định hướng bước đầu.
Theo đó, có đến 64% doanh nghiệp chưa thực hiện bất kỳ hành động chuyển đổi xanh nào, trong khi chỉ khoảng 5,5% doanh nghiệp đã cắt giảm phát thải trong một số hoạt động và 3,8% đã theo dõi, công bố kết quả giảm phát thải. Con số này cho thấy phần lớn doanh nghiệp vẫn ở giai đoạn chuẩn bị, chưa chuyển sang hoạch định hoặc thực thi các giải pháp xanh cụ thể.
Về động lực thúc đẩy chuyển đổi xanh, khảo sát cho thấy các yếu tố nội tại đóng vai trò quan trọng. Có 51,9% doanh nghiệp nhận định chuyển đổi xanh giúp tối ưu hiệu quả hoạt động, trong khi 36,7% cho biết họ chịu áp lực từ khách hàng và đối tác trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, các cơ hội tài chính mới,như tạo doanh thu từ tín chỉ carbon hoặc tiếp cận tín dụng ưu đãi, chưa được nhận diện đầy đủ chỉ 22,7% doanh nghiệp xem đây là động lực quan trọng.
Điều này cho thấy các công cụ thị trường vẫn chưa được khai thác hiệu quả, phần nào phản ánh hạn chế về thông tin và năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp cũng như yêu cầu cấp thiết gia tăng vai trò của những công cụ trên.
Về rào cản, kết quả khảo sát cho thấy thiếu vốn đầu tư là thách thức lớn nhất, được 50% doanh nghiệp lựa chọn; tiếp theo là thiếu nhân sự kỹ thuật phù hợp (46%) và thiếu giải pháp công nghệ xanh (42%). Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin, hồ sơ kỹ thuật và yêu cầu từ ngân hàng, khiến họ khó đáp ứng tiêu chí tiếp cận tín dụng xanh.
Năng lực xây dựng và quản lý dự án chuyển đổi xanh còn yếu, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao hoặc quy trình chứng nhận phát thải khắt khe. Nội lực của doanh nghiệp tư nhân không vững chắc trong bối cảnh chịu áp lực áp lực chuyển đổi sẽ tạo ra khó khăn kép đối với doanh nghiệp.
Theo Sách trắng doanh nghiệp năm 2024, năm 2022 có đến 47,1% doanh nghiệp tư nhân có kết quả kinh doanh lỗ trong số hơn 710.000 doanh nghiệp đang hoạt động
Theo ông Minh, tín dụng xanh như dòng nước sạch, có thể vun bồi cho chúng ta, tạo ra những nguồn giá trị có thực. Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là chuyển đổi xanh, chuyển đổi xanh không phải là chính sách đơn lẻ mà là chính sách tổng thể, từ chính sách nông nghiệp, tài chính, tài khóa, tín dụng, tín chỉ carbon, phải xây dựng một hệ thống như vậy.
Đồng thời, chúng ta phải hiểu rõ tín dụng xanh không phải là nguồn vốn giá rẻ, mà là dòng vốn già. Bởi khi chúng ta chuyển đổi sang các mô hình tăng trưởng tích hợp đa tầng các nguồn vốn, tín dụng xanh phải là nguồn vốn dài hạn.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng, tăng trưởng tín dụng thêm 14-15% có thể bán thêm 16-18%. Do đó, chúng ta cần bàn luận kỹ hơn bên cạnh chuyển đổi xanh để lấy vốn dài hạn cho nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp đã bị khủng hoảng khi dùng nguồn vốn ngắn hạn cho mục tiêu dài hạn.
Về tính sẵn sàng triển khai tín dụng xanh, ông Minh đánh giá ngành ngân hàng có tính sẵn sàng cao nhất. Các doanh nghiệp phần lớn đã quan tâm nhưng nhiều khi họ còn phải lo cơm áo gạo tiền, câu chuyện kinh tế. Hay câu chuyện chuyển đổi chính sách, các ngân hàng thương mại có chương trình thiết kế chuyên nghiệp, ban hành quy định rủi ro nội bộ. Không chỉ cung cấp các gói vay tín dụng xanh mà chính các ngân hàng thương mại là nơi thực hiện ESG tốt nhất.
Còn thiếu hệ thống tiêu chí phân loại xanh mang tính pháp lý
Nói về những thách thức mà các bên đang gặp phải, ông Minh chỉ rõ còn thiếu hệ thống tiêu chí phân loại xanh mang tính pháp lý (green taxonomy) thống nhất cho toàn hệ thống tài chính; chưa có cơ chế ưu đãi tài chính rõ ràng về thuế, phí, bảo lãnh rủi ro dành cho cả bên vay và bên cho vay; khả năng hấp thụ vốn xanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), còn hạn chế do năng lực quản trị yếu, thiếu tài sản đảm bảo và hồ sơ tài chính chưa minh bạch; nguồn vốn trung và dài hạn của các ngân hàng vẫn chịu áp lực về kỳ hạn huy động, khiến các tổ chức tín dụng thận trọng trong việc mở rộng danh mục tín dụng xanh.
![]() |
Còn thiếu hệ thống tiêu chí phân loại xanh mang tính pháp lý. |
Trước những thách thức nêu trên, TS. Bùi Thanh Minh kiến nghị cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách ưu đãi, Trước tiên, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho tài chính xanh nói chung và tín dụng xanh nói riêng.
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước nên sớm ban hành danh mục chính thức các dự án xanh đủ điều kiện ưu tiên tín dụng, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để các tổ chức tín dụng áp dụng thống nhất.
Bên cạnh đó, việc xây dựng các chuẩn mực báo cáo và đánh giá đối với tín dụng xanh là cần thiết, chẳng hạn như yêu cầu các ngân hàng công bố định kỳ dư nợ tín dụng xanh và đánh giá tác động giảm phát thải từ danh mục cho vay. Quá trình chuẩn hóa này không chỉ giúp minh bạch hóa thông tin mà còn tăng cường niềm tin thị trường đối với sản phẩm tài chính xanh.
Về mặt cơ chế ưu đãi, Nhà nước cần thiết kế các chính sách tài chính hỗ trợ cụ thể để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng danh mục cho vay xanh. Một trong những giải pháp có thể áp dụng là cơ chế tái cấp vốn ưu đãi dành riêng cho các khoản tín dụng xanh, theo đó Ngân hàng Nhà nước cho vay lại một phần khoản vay xanh mà ngân hàng thương mại đã giải ngân với lãi suất thấp hơn, giúp giảm chi phí vốn cho bên cho vay.
Ngoài ra, việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng xanh hoặc mở rộng phạm vi bảo lãnh của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam cho các khoản vay ngân hàng cũng là hướng đi khả thi nhằm chia sẻ rủi ro tín dụng.
Mặt khác, cần nghiên cứu các chính sách ưu đãi về thuế, bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế nhập khẩu thiết bị xanh, dành cho các ngân hàng và doanh nghiệp tích cực tham gia các chương trình tín dụng xanh.
TS. Bùi Thanh Minh cũng kiến nghị cần tăng cường năng lực tài chính xanh và hợp tác quốc tế. Trong đó, nâng cao năng lực chuyên môn của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, quản lý và phát triển các sản phẩm tín dụng xanh.
Các ngân hàng cần được đào tạo về phương pháp đánh giá rủi ro môi trường – xã hội, xây dựng công cụ định lượng hiệu quả môi trường của dự án như lượng CO₂ giảm phát thải hoặc tiết kiệm năng lượng. Việc thiết lập đơn vị chuyên trách về phát triển bền vững và tín dụng xanh trong nội bộ ngân hàng sẽ góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động này.
Bên cạnh những nỗ lực trong nước, hợp tác quốc tế đóng vai trò thiết yếu trong việc mở rộng nguồn lực và kinh nghiệm triển khai. Việt Nam có thể học hỏi từ các quốc gia đi trước như Trung Quốc với mô hình Hướng dẫn Tín dụng xanh ban hành từ năm 2012, đồng thời tích cực huy động các nguồn vốn ưu đãi từ các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Quỹ Khí hậu xanh.
Việc tham gia các chương trình hợp tác công – tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và cơ sở hạ tầng bền vững cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó cần đa dạng hoá công cụ tài chính xanh. Ngoài tín dụng, cần đa dạng hóa các công cụ tài chính xanh nhằm tạo ra hệ sinh thái tài chính xanh đầy đủ và bền vững hơn. Các giải pháp như phát triển thị trường trái phiếu xanh trong nước, xây dựng sàn giao dịch tín chỉ các-bon, triển khai bảo hiểm rủi ro khí hậu, hay khuyến khích doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh và thành lập quỹ đầu tư xanh sẽ giúp giảm tải áp lực cho hệ thống ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp huy động vốn chủ động hơn.
Cuối cùng, cần có các giải pháp cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng lực tiếp cận và sử dụng tín dụng xanh.