Doanh nghiệp trong nước chưa tận dụng xuất khẩu

Tại tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội, ngày 5/9, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia, cho hay, mặc dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách phát triển công nghiệp chiến lược (CNCL) và công nghiệp hỗ trợ (CNHT), nhưng mức độ tham gia của doanh nghiệp nội địa vẫn còn hạn chế. Các ngành điện tử, cơ khí chế tạo hay dệt may, da giày vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu và linh kiện nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc và Hàn Quốc.

Cụ thể, tỷ lệ nội địa hóa của các ngành này hiện chỉ đạt: Điện tử, điện máy: 27%; Cơ khí chế tạo: 25–30%; Dệt may, da giày: 45–55%. Trong khi đó, các nước cạnh tranh chính như Trung Quốc: 67,1%; Thái Lan: 58,4%; Ấn Độ: 53,3%; Indonesia: 49,3%; Malaysia: 38,5%.

Việt Nam chỉ nhỉnh hơn một số nước có công nghiệp đang phát triển như Myanmar (30,8%), Bangladesh (23,3%) hay Lào (12,4%).

"Tỷ lệ nội địa hóa thấp đồng nghĩa với việc Việt Nam chưa thực sự làm chủ chuỗi sản xuất, dẫn tới rủi ro hàng trung chuyển, hạn chế giá trị gia tăng và dễ bị tác động bởi biến động nguyên liệu nhập khẩu", TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh.

TS Cấn Văn Lực: Tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam mới 36,6%, thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia. Ảnh minh hoạ.

Một điểm đáng chú ý, dù xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh, đóng góp của khu vực doanh nghiệp nội địa vẫn còn hạn chế, dưới 30% tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt trong các ngành điện tử, điện thoại, máy móc thiết bị, những mảng có giá trị gia tăng cao. Ngược lại, khu vực FDI nắm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, trở thành động lực chính của nền kinh tế.

Điều này dẫn tới hệ quả, doanh nghiệp nội địa chủ yếu tập trung ở những ngành có giá trị xuất khẩu thấp hoặc dựa vào tài nguyên thiên nhiên, như nông lâm thủy sản, trong khi các ngành then chốt, công nghệ cao vẫn do các tập đoàn FDI kiểm soát.

Dữ liệu WTO 2024 cho thấy, hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu Việt Nam vẫn ở mức thấp.

Ví dụ như ngành điện tử, điện máy, chiếm 33,1% tổng xuất khẩu Việt Nam, chỉ đạt 26,9% giá trị gia tăng nội địa, thấp hơn Thái Lan (52,2%), Indonesia (61,2%), Ấn Độ (66%) và Trung Quốc (75,3%). Dệt may, da giày: 33,9–35,8%, thấp hơn >60% so với các nước cạnh tranh. Ngành gỗ và thực phẩm chế biến đạt khoảng 53%, 52,6% nhưng vẫn thấp so với mặt bằng chung trong khu vực.

“Dù xuất khẩu tăng, nhưng phần lớn giá trị gia tăng rơi vào tay các tập đoàn FDI, doanh nghiệp nội địa hưởng lợi hạn chế. Đây là nghịch lý mà Việt Nam cần vượt qua nếu muốn nâng cao năng lực sản xuất chiến lược", TS Cấn Văn Lực nhận định.

Giải pháp trọng tâm giai đoạn 2026–2030

TS Cấn Văn Lực đề xuất một số hướng đi chiến lược:

-Hoàn thiện thể chế và chính sách công nghiệp: Xây dựng nền công nghiệp xanh, giá trị gia tăng cao, ứng dụng công nghệ số hóa, phát triển công nghiệp hỗ trợ, cơ sở hạ tầng năng lượng và logistics xanh.

-Liên kết doanh nghiệp nội địa với FDI: Ưu tiên dự án FDI có tỷ lệ nội địa hóa cao, chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động Việt Nam, đồng thời hỗ trợ DNNVV tham gia chuỗi cung ứng.

-Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao: Nâng cấp giáo dục nghề nghiệp, đào tạo chuyên gia trong các ngành công nghệ cao, áp dụng chế độ đãi ngộ cạnh tranh để giữ chân nhân lực.

-Hỗ trợ tài chính, đầu tư: Vận hành quỹ phát triển công nghiệp chiến lược, ưu tiên vốn dài hạn, lãi suất ưu đãi cho sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu chiến lược.

-Ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số: Phát triển khu công nghệ cao, thu hút chuyên gia quốc tế, tăng cường sản xuất thông minh, ứng dụng AI, ERP, IoT, Big Data trong sản xuất.

-Chuyển đổi xanh và bền vững: Xây dựng chiến lược công nghiệp xanh, thúc đẩy năng lượng tái tạo, giảm phát thải carbon, phát triển thị trường carbon và sản xuất thân thiện môi trường.