Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố dự thảo Nghị định mới, trong đó đề xuất cấp sinh hoạt phí hằng tháng trị giá 3,63 triệu đồng, kéo dài tối đa 10 tháng/năm cho sinh viên và học viên cao học thuộc các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược không phân biệt trường công hay tư. Mức hỗ trợ này tương đương với chính sách hiện áp dụng cho sinh viên sư phạm.
![]() |
Sinh viên khối ngành kỹ thuật, công nghệ, khoa học cơ bản có thể được hỗ trợ tới 3,63 triệu đồng mỗi tháng theo đề xuất mới của Bộ Giáo dục. Ảnh minh hoạ |
Theo dự thảo, chính sách hỗ trợ áp dụng cho ba nhóm ngành:
Khoa học cơ bản: Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh học, Khoa học môi trường và Khoa học máy tính.
Kỹ thuật then chốt: Gồm các ngành truyền thống như Kỹ thuật cơ khí, Kỹ thuật xây dựng, đến các lĩnh vực công nghệ cao như Trí tuệ nhân tạo, Khoa học dữ liệu, Tự động hóa, Vật liệu mới, Kỹ thuật hàng không...
Công nghệ chiến lược: Bao gồm Công nghệ sinh học, Công nghệ nano, Công nghệ môi trường, Công nghệ thông tin - an toàn thông tin, Công nghệ y sinh, Công nghệ năng lượng tái tạo...
Ngoài khoản hỗ trợ sinh hoạt phí, sinh viên và học viên còn có cơ hội nhận học bổng học phí, căn cứ vào kết quả học tập và nghiên cứu:
Loại xuất sắc: Được hỗ trợ toàn bộ học phí (100%).
Loại giỏi: Hưởng mức học bổng tương đương 70% học phí.
Loại khá: Được giảm 50% học phí.
Điều kiện xét học bổng được chia theo từng giai đoạn học:
Kỳ đầu tiên (năm nhất): Ưu tiên người học từng đạt giải học sinh giỏi cấp quốc gia, cuộc thi khoa học kỹ thuật, khởi nghiệp sáng tạo hoặc có điểm đầu vào cao, học lực lớp 12 từ loại khá trở lên.
Từ năm hai trở đi: Căn cứ theo điểm trung bình tích lũy (GPA) và điểm rèn luyện. GPA từ 2,50 (loại khá), 3,20 (loại giỏi) và 3,60 (loại xuất sắc), kèm theo yêu cầu về thành tích học thuật hoặc nghiên cứu khoa học cấp quốc gia, quốc tế.
Ông Ngô Văn Thịnh, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính cho biết, các lĩnh vực khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nhân lực trong các ngành này còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, nhất là đội ngũ kỹ sư và nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản, có khả năng làm việc thực tiễn.
Vì vậy, chính sách học bổng này nhằm thu hút, nuôi dưỡng và giữ chân người học, đặc biệt là những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn nhưng có thành tích học tập xuất sắc.
Dù số lượng sinh viên theo học nhóm ngành STEM tại Việt Nam đang tăng hơn 10% mỗi năm, song hiện chỉ chiếm khoảng 27 - 29% tổng số sinh viên, tương đương 560.000 - 600.000 người. Trong khi đó, tỷ lệ này tại Singapore và Malaysia lần lượt là 46% và 50%, còn ở Hàn Quốc, Phần Lan, Đức dao động từ 35 - 39%.
Việt Nam đặt mục tiêu tăng quy mô đào tạo khối ngành STEM lên hơn một triệu người học vào năm 2030, trong đó riêng nhóm ngành công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ số chiếm khoảng 60%.