Các nhà nghiên cứu của Đại học Colorado Anschutz hợp tác cùng các cơ quan an toàn lao động, rà soát gần 700 công trình công bố từ năm 1929 đến 2024. Kết quả cho thấy chỉ khoảng 8-9% nghiên cứu đánh giá trực tiếp việc giảm bệnh tật ở người, phần lớn thử nghiệm chỉ đo “chỉ số trung gian” như nồng độ bụi mịn, số hạt hoặc số vi khuẩn trong buồng thí nghiệm. Nói cách khác, nhiều thiết bị được chứng minh giảm hạt trong không khí nhưng không có bằng chứng rõ ràng rằng chúng làm giảm nguy cơ mắc cúm, COVID-19 hay các bệnh lây qua đường hô hấp.
Sự khác biệt còn hiện rõ khi phân loại công nghệ. Các hệ lọc HEPA truyền thống có nhiều bằng chứng về loại bỏ hạt vật chất, nhưng với các công nghệ “tiên tiến” như plasma, oxy hóa quang xúc tác hay một số bộ lọc kết hợp vật liệu nano, hầu như không có thử nghiệm lâm sàng trên người. Ví dụ, trong nhiều chục nghiên cứu về plasma hoặc vật liệu nano, số thử nghiệm liên quan tới người hầu như bằng không.
![]() |
Hơn 90% các loại máy lọc không khí chưa được kiểm nghiệm trong điều kiện thực tế với người. Ảnh minh họa |
Không chỉ là vấn đề hiệu quả, một số công nghệ còn tiềm ẩn rủi ro sức khỏe. Một số máy phát ion hoặc thiết bị sử dụng quá trình oxy hóa có thể sinh ra sản phẩm phụ như ozone, formaldehyde hoặc các gốc phản ứng. Những chất này có thể gây kích ứng đường hô hấp hoặc gây hại lâu dài nếu người sử dụng tiếp xúc lâu. Song theo phân tích, rất ít nghiên cứu thực sự kiểm tra đầy đủ mức độ phát sinh và tác động của những sản phẩm phụ này trong điều kiện có người. Điều này tạo ra khoảng trống lớn giữa lời quảng cáo “an toàn cho nhà trường, bệnh viện” và dữ liệu khoa học.
Người tiêu dùng có thể bỏ ra một số tiền lớn nhưng lại không biết mình đang đầu tư vào sản phẩm có thực sự hiệu quả và an toàn. Các chuyên gia cho rằng cần nhiều thử nghiệm thực địa, nghiên cứu so sánh với nhóm kiểm soát và đánh giá kết quả “sức khỏe con người” (số ca bệnh, tỷ lệ lây truyền) thay vì chỉ đo nồng độ hạt.