Phát biểu tại hội nghị lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định cơ chế hợp tác công tư (PPP) trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chiều 21/6, ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ KH&CN) cho biết, đây là một trong những hướng đi mới nhằm hình thành các “mũi nhọn đầu tư” cho những lĩnh vực khó thu hút dòng vốn tư nhân do rủi ro cao, lợi nhuận chưa rõ ràng, nhưng có tính chiến lược và giá trị lan tỏa lớn cho nền kinh tế.
“Cần cho phép thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm với sự tham gia của Nhà nước, nhưng không nắm quyền chi phối, đồng thời thuê các tổ chức tư nhân chuyên nghiệp vận hành để đảm bảo hiệu quả”, ông Hải nhấn mạnh.
![]() |
Ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính (Bộ Khoa học và Công nghệ) nêu ra một số đề xuất. Ảnh: Đức Minh. |
Theo Bộ KH&CN, điểm đột phá của đề xuất này nằm ở việc trao quyền cho tư nhân quản lý quỹ, trong khi Nhà nước đóng vai trò đồng hành bằng cách góp một phần vốn mồi. Điều này không chỉ thể hiện sự chia sẻ rủi ro mà còn khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân cùng nhập cuộc vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nơi mà các doanh nghiệp công nghệ non trẻ cần hơn cả là niềm tin và nguồn lực ban đầu.
Vấn đề nằm ở chỗ, hiện chưa có cơ chế pháp lý cụ thể cho hình thức này. Luật Quản lý tài sản công và các văn bản liên quan vẫn còn “trói tay” các viện, trường, tổ chức khoa học công nghệ vốn đang quản lý nhiều tài sản giá trị nhưng khó có thể huy động được nguồn lực xã hội hóa để khai thác hiệu quả.
Không thể kỳ vọng các startup công nghệ cao phát triển nếu thiếu vốn mồi. Nhưng cũng không thể để công chức Nhà nước đi làm đầu tư mạo hiểm, đó là chuyên môn rất khác, đòi hỏi độ nhạy thị trường, tốc độ ra quyết định và cả khả năng chịu lỗ ngắn hạn để đánh đổi cho đột phá dài hạn.
Ngoài đề xuất về Quỹ đầu tư mạo hiểm, dự thảo Nghị định cũng đưa ra 3 mô hình PPP trong phát triển hạ tầng khoa học công nghệ:
Thứ nhất, mô hình nhà nước và tư nhân cùng góp vốn thành lập viện nghiên cứu chung – một hình thức đầu tư đồng sáng lập pháp nhân độc lập để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo. Mô hình này được đánh giá là dễ triển khai nhất trong thực tiễn, bởi nhà nước có thể tham gia bằng nhiều hình thức hỗ trợ không tiền mặt như: giao đất, đầu tư hạ tầng, tài trợ chương trình nghiên cứu trọng điểm... Trong khi đó, khu vực tư nhân đóng góp nguồn lực tài chính, công nghệ và vận hành linh hoạt. Đây được xem là bước đi khả thi để hiện thực hóa mô hình PPP trong lĩnh vực khoa học công nghệ, vốn trước nay thiếu hành lang pháp lý cụ thể và chưa hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân.
Thứ hai, về đầu tư hạ tầng, dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể tại Chương II. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Nam Hải, việc cùng đầu tư vào một hạ tầng có thể phát sinh vướng mắc trong khai thác, vận hành và chia sẻ lợi ích.
Để khắc phục, ông đề xuất ba mô hình PPP khả thi: Tư nhân đầu tư, Nhà nước thuê lại để phục vụ hoạt động nghiên cứu, đào tạo; Tư nhân đầu tư, Nhà nước thuê sử dụng cho viện nghiên cứu, doanh nghiệp; Nhà nước đầu tư, thuê doanh nghiệp vận hành, cung cấp dịch vụ cho các đơn vị nghiên cứu. Cả ba mô hình đều phân định rõ vai trò từng bên, đảm bảo hiệu quả sử dụng hạ tầng và dễ dàng xác định phần vốn đầu tư công, phần thuê dịch vụ. Đây là cách tiếp cận đúng đắn khi nhà nước tài trợ cho các hoạt động mang lại lợi ích chung giữa khu vực công và tư, thúc đẩy hợp tác phát triển.
Thứ ba, nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Trong trường hợp này, nhà nước thường góp khoảng 20-30%, phần còn lại doanh nghiệp chi trả. Nếu nhà nước đầu tư lớn, kết quả sẽ được phân chia theo thỏa thuận với doanh nghiệp.
Một rào cản khác đang cản bước thương mại hóa các kết quả nghiên cứu là quy định cứng nhắc về định giá tài sản công. Theo ông Nguyễn Nam Hải, nhiều kết quả nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng cao, nhưng bị “đóng băng” vì không thể xác định giá trị theo cơ chế thị trường, đặc biệt là với tài sản vô hình như phần mềm, quy trình công nghệ, bằng sáng chế…
“Cần có cơ chế cho phép các bên tự thỏa thuận phương án khai thác, phân chia lợi ích mà không bị bó buộc vào việc định giá tài sản ngay từ đầu”, ông Hải nói.
Theo đó, nghị định mới sẽ mở ra cơ chế linh hoạt hơn, cho phép viện, trường và doanh nghiệp liên doanh, liên kết, chia sẻ lợi ích trên cơ sở hợp đồng thay vì phải bán – chuyển nhượng tài sản theo cơ chế nhà nước.