Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định phê duyệt Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam gia nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu có giá trị ước đạt 10.000 tỷ USD vào năm 2028.

Halal là một thuật ngữ tiếng Ả Rập có nghĩa là "được phép" hoặc "hợp pháp" theo luật Hồi giáo (Sharia) và Kinh Qur'an. Khi nói đến sản phẩm và dịch vụ Halal, có nghĩa là những sản phẩm và dịch vụ đó tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc của đạo Hồi. Để một sản phẩm hoặc dịch vụ được công nhận là Halal, nó thường phải trải qua quá trình kiểm định và được cấp Chứng nhận Halal bởi một tổ chức có thẩm quyền. Chứng nhận này là bằng chứng cho thấy sản phẩm/dịch vụ đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và yêu cầu của Hồi giáo, mang lại sự tin tưởng cho người tiêu dùng Hồi giáo và mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường tiềm năng này.

Cùng với Đề án, một dự thảo Nghị định về quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal đang được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, hướng đến hoàn thiện hành lang pháp lý cho một lĩnh vực đầy tiềm năng nhưng còn bỏ ngỏ.

Việt Nam đặt mục tiêu 'chạm tay' vào chuỗi cung ứng trị giá 10.000 tỷ USD
Khi nói đến sản phẩm và dịch vụ Halal, có nghĩa là những sản phẩm và dịch vụ đó tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc của đạo Hồi. Ảnh minh hoạ

Dự thảo Nghị định là công cụ pháp lý cụ thể hóa Đề án Halal, nhằm giải quyết khoảng trống thể chế hiện tại trong lĩnh vực chứng nhận và quản lý sản phẩm Halal. Nghị định đặt mục tiêu thiết lập hệ thống tiêu chuẩn, cơ chế chứng nhận rõ ràng, minh bạch – điều kiện tiên quyết để Việt Nam cạnh tranh trên thị trường Hồi giáo toàn cầu. Hiện Việt Nam vẫn chưa có một khung pháp lý đồng bộ về Halal, gây khó khăn cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý trong việc phát triển ngành hàng đặc thù này.

Dự thảo tập trung vào 6 nhóm nội dung chính, bao gồm: tiêu chuẩn sản phẩm, ghi nhãn – truy xuất, thử nghiệm – chứng nhận, dấu nhận diện, kiểm tra – xử lý vi phạm và các chính sách hỗ trợ.

Sản phẩm/dịch vụ Halal phải tuân thủ đồng thời luật Hồi giáo (Sharia) và tiêu chuẩn Halal do doanh nghiệp công bố áp dụng (TCVN, tiêu chuẩn quốc tế…). Các yêu cầu bao trùm từ nguyên liệu, phụ gia, quy trình sản xuất, đóng gói đến vận chuyển – tất cả phải ngăn ngừa nhiễm chéo và đảm bảo vệ sinh tuyệt đối.

Tất cả sản phẩm Halal lưu thông phải có nhãn “SẢN PHẨM HALAL” hoặc “HALAL” bằng chữ Latin in hoa, dễ thấy, không thể tẩy xóa. Nhãn phải có thông tin tổ chức cấp chứng nhận và số hiệu chứng nhận. Không được sử dụng hình ảnh, biểu tượng mang yếu tố Haram hoặc gây phản cảm theo tín ngưỡng Hồi giáo.

Dự thảo khuyến khích ứng dụng công nghệ như QR code, blockchain trong truy xuất nguồn gốc.

Hoạt động chứng nhận chỉ được thực hiện bởi các tổ chức đăng ký với Bộ KH&CN và đạt chuẩn TCVN 13888:2023 hoặc tiêu chuẩn quốc tế tương đương (ví dụ ISO/IEC 17065). Mỗi tổ chức phải có tối thiểu 2 chuyên gia đánh giá là người Hồi giáo, được đào tạo chuyên sâu về Halal.

Dấu Halal phải có chữ “HALAL” bằng Latin và tiếng Ả Rập, cùng tên/logo tổ chức chứng nhận. Việt Nam sẽ thừa nhận kết quả chứng nhận của tổ chức nước ngoài nếu tổ chức đó là thành viên của các hiệp định công nhận lẫn nhau (MRA), hoặc được các tổ chức như IAF, APAC công nhận.

Nhà nước sẽ có chính sách ưu đãi tín dụng, hỗ trợ một phần chi phí chứng nhận Halal lần đầu, tài trợ nghiên cứu công nghệ và xây dựng cơ sở dữ liệu Halal quốc gia. Đồng thời, Việt Nam sẽ chủ động đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế để thúc đẩy thương mại Halal. Doanh nghiệp Halal được khuyến khích tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và quảng bá thương hiệu sản phẩm Halal Việt ra toàn cầu.

Với quy mô toàn cầu lên tới hàng nghìn tỷ USD, ngành Halal được xem là mảnh đất màu mỡ cho xuất khẩu nông sản, thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm và dịch vụ du lịch Việt Nam. Việc ban hành khung pháp lý Halal không chỉ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước, mà còn thu hút dòng vốn đầu tư Hồi giáo và mở rộng không gian hợp tác ngoại giao kinh tế đa phương.

Khi khung pháp lý Halal đi vào cuộc sống, Việt Nam không chỉ tham gia “sân chơi” Halal toàn cầu, mà còn có thể trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu Halal khu vực ASEAN, góp phần quan trọng vào tăng trưởng bền vững và nâng tầm thương hiệu nông sản – thực phẩm Việt Nam trên bản đồ thế giới.