Dứa, loại trái cây từng bị “lép vế” trước thanh long hay xoài trong danh mục nông sản xuất khẩu chủ lực, đang âm thầm tạo nên một làn sóng tăng trưởng mới. Trong bối cảnh thị trường toàn cầu “khát hàng”, đặc biệt tại Mỹ và EU, dứa Việt Nam bắt đầu ghi dấu bằng chất lượng vượt trội, năng lực chế biến ngày càng cải thiện và định hướng quy hoạch bài bản hơn.
Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, tính đến hết tháng 5/2025, dứa Việt đã hiện diện tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 34 triệu USD. EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm gần một nửa, trong đó Nga nổi lên dẫn đầu với kim ngạch 9,4 triệu USD. Đứng thứ hai là Hoa Kỳ, thị trường tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh khốc liệt, ghi nhận giá trị xuất khẩu 7,2 triệu USD.
Quy mô thị trường dứa toàn cầu năm 2024 đạt 28,79 tỷ USD và dự báo sẽ vượt 39 tỷ USD vào năm 2029, tăng trưởng trung bình 6,33% mỗi năm. Châu Âu và Bắc Mỹ chiếm một nửa nhu cầu tiêu thụ toàn cầu, mở ra dư địa rất lớn cho Việt Nam, nhất là khi nhiều nước “không có hàng để bán”.
Hiện tại, diện tích trồng dứa cả nước khoảng 52.000 ha, sản lượng hơn 860.000 tấn/năm, tập trung tại Tiền Giang, Kiên Giang, Thanh Hóa, Ninh Bình… Đáng chú ý, 30–40% diện tích đã được quy hoạch rải vụ, giúp cung ứng dứa quanh năm, đặc biệt trong mùa thấp điểm toàn cầu từ tháng 11 đến tháng 3, nâng cao năng lực chế biến và xuất khẩu.
Dù được đánh giá cao về chất lượng, đặc biệt là dòng sản phẩm chế biến sâu như nước dứa cô đặc, dứa đóng hộp..., nhưng để cạnh tranh sòng phẳng với Costa Rica – Indonesia – Philippines, Việt Nam cần khai thác triệt để giống MD2, “vua của các loại dứa” với hơn 70% thị phần EU.
Tuy nhiên, MD2 hiện mới chỉ chiếm chưa đầy 5% diện tích tại Việt Nam. Nguyên nhân là do chi phí giống cao, tốc độ nhân giống chậm và kỹ thuật còn hạn chế. Một chồi giống MD2 nhập khẩu có giá tới 11.000 đồng, gây áp lực vốn lớn cho nông dân.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả, đề xuất Nhà nước cần có chính sách tín dụng ưu đãi, vì đầu tư dứa yêu cầu chi phí ban đầu 120–130 triệu đồng/ha. Song song đó, cần mở rộng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, cải tiến thủy lợi và quản lý chặt chẽ dư lượng thuốc BVTV để duy trì uy tín quốc gia.
Mô hình chế biến sâu là hướng đi không thể đảo ngược. Dứa là loại quả dễ hỏng, đòi hỏi hệ thống bảo quản lạnh và công nghệ chế biến hiện đại. Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn (Viện Cơ điện Nông nghiệp), các sản phẩm như mứt dứa, nước ép, dứa lên men... không chỉ kéo dài vòng đời sản phẩm mà còn gia tăng giá trị nhiều lần.
![]() |
Việt Nam đã chế biến sâu được nhiều sản phẩm từ dứa - Ảnh: VGP/Đỗ Hương |
Hiện nước dứa cô đặc của DOVECO đã được xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia, với mức giá lên tới 4.000 USD/tấn tại Nhật, cao hơn 1.200 USD so với EU và Mỹ. Điều này chứng minh, nếu đầu tư bài bản, dứa hoàn toàn có thể trở thành “trái cây tỷ USD” tiếp theo của Việt Nam, bên cạnh chuối, thanh long hay sầu riêng.
Để đạt mục tiêu 60.000 ha dứa vào năm 2030, ngành nông nghiệp cần một chiến lược tổng thể từ giống, quy hoạch, đến công nghệ và logistics. Việc chưa mở thêm hồ sơ kỹ thuật cho thị trường mới là điểm nghẽn lớn, trong khi các hiệp định như EVFTA hay UKVFTA đang mở ra dư địa cực lớn.
Bài học từ những “cơn sốt” dưa hấu, chuối hay sầu riêng cho thấy, nếu thiếu kiểm soát quy hoạch và đầu ra, nông sản dễ rơi vào vòng xoáy trồng chặt – chặt trồng. Vì vậy, theo ông Nguyễn Mạnh Hùng (Nafoods), cần quy hoạch vùng trồng chặt chẽ, gắn với doanh nghiệp chế biến và hệ thống tiêu thụ, đảm bảo sự ổn định và bền vững.