Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tháng 8/2025 cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 3,72 tỷ USD, mức cao nhất từ đầu năm và vượt mốc 3,03 tỷ USD của tháng 1. So với tháng 7, khi thặng dư đạt 2,27 tỷ USD, mức xuất siêu trong tháng 8 tăng thêm 1,45 tỷ USD, tương đương gần gấp rưỡi.
![]() |
Cán cân thương mại hàng hóa Việt Nam theo tháng giai đoạn 01/2024 – 08/2025. Nguồn: Tác giả tổng hợp Cục Thống kê (NSO), Cục Hải quan. |
Trong tháng 8, kim ngạch xuất khẩu đạt 43,39 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước, còn nhập khẩu đạt 39,67 tỷ USD, tăng 17,7%. Kết quả này giúp cán cân thương mại duy trì thặng dư 3,72 tỷ USD, nhưng thấp hơn mức 4,05 tỷ USD của tháng 8/2024 do nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu.
Lũy kế tám tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 597,93 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu đạt 305,96 tỷ USD, tăng 14,8%, còn nhập khẩu 291,97 tỷ USD, tăng 17,9%, đưa thặng dư thương mại lên 13,99 tỷ USD.
Cũng theo Cục Thống kê, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất với 99,1 tỷ USD, tăng 26,4% và chiếm hơn 32% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất với 117,9 tỷ USD, tăng 27,1% và chiếm gần 40% tổng kim ngạch nhập khẩu.
![]() |
Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong 8 tháng năm 2025. Nguồn: Tác giả tổng hợp Cục Thống kê (NSO). |
Trong cùng kỳ, Việt Nam xuất siêu sang Hoa Kỳ 87,0 tỷ USD, tăng 26,8%, trong khi nhập siêu từ Trung Quốc 75,9 tỷ USD, tăng 39,8%. Ở các thị trường khác, xuất siêu sang EU đạt 25,6 tỷ USD, tăng 10,0%; xuất siêu sang Nhật Bản đạt 1,5 tỷ USD, giảm 9,3% so với cùng kỳ. Cán cân thương mại với Hàn Quốc tiếp tục thâm hụt 20,1 tỷ USD, tăng 0,7%. Nhập siêu từ ASEAN ở mức 9,4 tỷ USD, tăng 69,1%, mức tăng cao nhất trong số các đối tác chính.
Cơ cấu thương mại cho thấy xuất siêu chủ yếu đến từ Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, trong khi nhập siêu tập trung ở Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN.
Các số liệu về thặng dư thương mại phản ánh tại thời điểm hàng hóa hoàn tất thủ tục hải quan, trong khi dòng ngoại tệ thực tế về tài khoản doanh nghiệp thường chậm từ 30 đến 90 ngày tùy điều khoản thanh toán. Do đó, tác động của thặng dư không chỉ diễn ra trong tháng mà còn lan tỏa sang các tháng tiếp theo.
Nguồn ngoại tệ củng cố tỷ giá
Tính đến ngày 5/9, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố tỷ giá trung tâm ở mức 25.248 VND/USD, tăng 3,75% so với cuối năm 2024. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá đạt 26.400 VND/USD, tăng 3,59% so với cuối năm và tăng 0,69% so với đầu tháng 8, tương ứng 51 đồng. So với thị trường tự do, tỷ giá liên ngân hàng thấp hơn từ 410 đến 510 đồng/USD, trong khi mức chênh lệch này vào đầu tháng 8 chỉ khoảng 244–254 đồng/USD.
![]() |
Diễn biến tỷ giá USD/VND và chỉ số DXY từ đầu năm 2025 đến ngày 05/9/2025. Nguồn: Tác giả tổng hợp Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Hội Nghiên cứu Thị trường Liên ngân hàng (VIRA). |
Thặng dư thương mại trong tháng 8 đã bổ sung nguồn cung ngoại tệ, qua đó góp phần hạn chế áp lực tăng thêm của tỷ giá USD/VND. Một phần dòng tiền từ xuất khẩu được giải ngân ngay trong tháng, trong khi các hợp đồng thanh toán quốc tế sẽ tiếp tục tạo nguồn cung trong các tháng 9 và 10.
Trên thị trường ngoại hối, cung USD gia tăng trong khi nhu cầu VND cho thanh toán nội địa duy trì ổn định, từ đó hỗ trợ cân đối cung cầu ngoại tệ. Yếu tố này làm giảm bớt rủi ro biến động quá nhanh của tỷ giá và giúp duy trì sự tin tưởng vào đồng nội tệ.
Đối với doanh nghiệp, việc nguồn cung ngoại tệ được cải thiện giúp giảm phần nào rủi ro hối đoái, nhất là với các ngành có dư nợ ngoại tệ hoặc phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu như hàng không, dệt may và thép. Khi chi phí vay và nhập khẩu ít biến động, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) được cải thiện, qua đó hỗ trợ định giá cổ phiếu.
Ngoài ra, sự bổ sung nguồn ngoại tệ từ thương mại cùng với động thái bán kỳ hạn 1,5 tỷ USD của Ngân hàng Nhà nước trong tháng 8 đã góp phần làm dịu áp lực tăng tỷ giá, tăng thanh khoản ngoại tệ và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho dòng vốn quốc tế giải ngân vào cổ phiếu và trái phiếu trong nước.
Doanh nghiệp xuất khẩu hưởng lợi từ đơn hàng
Theo dữ liệu báo cáo tài chính quý II của các doanh nghiệp cho thấy các ngành xuất khẩu chủ lực ghi nhận tăng trưởng rõ rệt. Doanh thu ngành thủy sản tăng 11,1% so với cùng kỳ, lợi nhuận sau thuế tăng 156,6%. Ngành dệt may tăng 11,4% về doanh thu và 93,7% về lợi nhuận sau thuế. Tính chung nửa đầu năm 2025, xuất khẩu dệt may tăng 10%, thủy sản tăng 16,9% và nội thất tăng 15,8% so với cùng kỳ.
![]() |
Tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và biên EBIT của các ngành quý II/2025. Nguồn: FiinPro-X Platform. Dữ liệu tính cho 1.034/1.549 doanh nghiệp niêm yết (chiếm 99% vốn hóa nhóm phi tài chính và 64,8% vốn hóa toàn thị trường chứng khoán). |
Một số doanh nghiệp lớn đạt kết quả nổi bật trong giai đoạn này. CTCP Vĩnh Hoàn (HoSE: VHC) báo lãi 692 tỷ đồng, tăng 41,8% so với cùng kỳ. CTCP Nam Việt (Navico - HoSE: ANV) ghi nhận 465 tỷ đồng, tăng 308%. FMC đạt lợi nhuận 139 tỷ đồng, CTCP Đầu tư và Thương mại TNG (HNX: TNG) đạt 161 tỷ đồng, tăng 20,7%, trong khi VGT ghi nhận 582 tỷ đồng, tăng 656,6%.
Bước sang quý III, thặng dư thương mại 3,72 tỷ USD trong tháng 8 bổ sung thêm nguồn cung ngoại tệ cho hệ thống. Diễn biến này góp phần giảm áp lực chi phí nhập khẩu nguyên liệu đối với doanh nghiệp xuất khẩu, tạo điều kiện duy trì biên lợi nhuận gộp và hỗ trợ cải thiện lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS).
Theo dự báo của MBS Research, xuất khẩu cả năm 2025 có thể tăng 9–10%, trong khi nhập khẩu tăng khoảng 15%, đưa thặng dư thương mại về mức 4–8 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với 24,8 tỷ USD của năm 2024. Mặc dù vậy, cán cân thương mại vẫn duy trì trạng thái dương và tiếp tục hỗ trợ triển vọng của nhóm cổ phiếu xuất khẩu.
SSI Research cho rằng các ngành dệt may, thủy sản và nội thất có triển vọng tích cực nhờ đơn hàng ổn định cùng mức định giá cổ phiếu thấp so với trung bình nhiều năm.